Chủ nhật, Mậu thường mang cả gia đình đi lễ tại một
nhà thờ gần nhà. Nhà thờ tây, như đám con của anh vẫn thường gọi. Cũng
có một nhà thờ Việt Nam nơi thành phố này. Gọi là nhà thờ Việt Nam thì
cũng không đúng lắm. Thực ra thì giáo dân Việt Nam chỉ share lại một
nhà thờ tây. Hai bên chia giờ giấc mà hành lễ. Trong cùng một nhà thờ
lúc thì Chúa được thờ phụng bằng tiếng Việt Nam, lúc thì được tôn xưng
bằng tiếng tây. Đối với Chúa chắc chẳng có vấn đề trở ngại ngôn ngữ
như đám con của Mậu.
Nói là trở ngại ngôn ngữ thì cũng không đúng lắm. Mậu là người có ý
thức về tiếng mẹ đẻ. Ở nhà các con anh luôn được nhắc nhở là phải nói
tiếng Việt Nam. Từ đứa nhỏ đến đứa lớn, đứa nào cũng thông thạo tiếng
nước nhà. Nói líu la líu lo không chút trở ngại. Nhưng vốn liếng chữ
nghĩa của chúng chỉ đóng khung trong những câu chuyện thường ngày, đi
sâu hơn vào những vấn đề cao cao một chút là có trở ngại. Phải nói vòng
vo, phải mượn chút tiếng tây pha vô hoặc bỏ cuộc.
Những kinh kệ tiếng Việt gồm phần lớn những chữ thuộc
loại cao cấp đối với đám trẻ. Chúng không với tới. Mấy chữ tây trong
kinh tây coi bộ dễ nhá hơn. Những chữ Việt già nua khó khăn đó lại được
đọc bằng giọng ê a kéo dài lê thê làm chúng boring hết sức. Đi nhà thờ
Việt Nam, đối với chúng, như vác một cây thánh giá quá nặng nề.
Bắt chúng vác một cây thánh giá nặng như vậy lớn lên
chắc chúng sẽ tìm cách gỡ ra khỏi đôi vai bầm tím. Chẳng nên. Vợ chồng
Mậu đành phải chọn đi nhà thờ tây. Để giữ được cho con cái thói quen
đi lễ ngày chủ nhật. Thực ra đằng sau sự chọn lựa này cũng có một hai
lý do phụ. Chỉ tốn năm phút từ nhà tới nhà thờ thay vì phải nửa tiếng
lái xe nếu đi lễ Việt Nam. Ấy là không kể thêm thời gian trừ hao tới
sớm để có chỗ ngồi nếu không muốn phải vất vả chen lấn. Giáo dân Việt
Nam vốn vẫn chịu khó đi lễ hơn tây nhiều.
Khu phố Mậu ở là khu tây rặt. Ra đường chỉ thấy tây
với đầm. Mà toàn những tây đầm lịch sự. Chẳng quen biết, đụng nhau trên
vỉa hè là chào, cười, nói bâng quơ dăm ba câu về thời tiết. Mà thời
tiết ở cái thành phố này thì lúc nào mà chẳng có chuyện nói.Ấm đấy rồi
lạnh đấy, nắng đấy rồi mưa đấy, cứ ít ngày lại đổi món. Món nào cũng
chẳng dễ nhá.
Những con người lịch sự này mỗi chúa nhật tụ họp nhau
nơi nhà thờ. Nói là tất cả tụ họp cũng không đúng. Chỉ một số nhỏ người
đi lễ còn phần lớn bận ngủ, bận uống cà phê, bận họp bạn, bận đọc báo,
bận xem ti vi, bận lười nên lơ Chúa đi. Số người thuộc loại sau này
có lẽ ngày càng phát triển vì Mậu thấy nhà thờ chẳng cần nới rộng mà
vẫn cứ ngày càng rộng hơn.
Trong đám tín đồ còn hàng tuần chạy đến níu áo Chúa,
gia đình Mậu là một gia đình cá biệt. Cá biệt về màu da và cá biệt về
nhân số. Màu da của những công dân thuộc loại thiểu số nhãn tiền thì
chẳng cần phải nói gì thêm. Ngay mấy đứa con nít trong nhà thờ, họa
hoằn mới theo ông bà đi lễ, cũng nhận ra ngay và giương mắt nhìn những
người trông không giống chúng. Thường dự lễ là những người đều có đủ
điều kiện gia nhập hội tuổi vàng cả. Số người cỡ vợ chồng Mậu chẳng
có bao nhiêu. Giới trẻ thì hầu như không có. Ít khi có một gia đình
đi lễ đầy đủ. Gia đình Mậu, hai vợ chồng và bốn đứa con, đi lễ hàng
tuần, ngồi giăng ra hết một hàng ghế là một sự bổ túc nhân số đẹp mắt.
Sau lễ, mấy ông tây bà đầm thường tìm dịp tới bắt tay khen ngợi gia
đình Mậu là một gia đình đẹp, đạo đức, đáng làm gương cho mọi người.
Cha sở thỉnh thoảng lại trao cho gia đình anh cái vinh dự được ôm của
lễ từ cuối nhà thờ lên bàn thờ. Đoàn diễn hành sáu người bao giờ cũng
nhận được những ánh mắt âu yếm của những ông bà già vốn rất cô độc trong
cuộc sống.
Cô độc là một vấn đề xã hội gay gắt của cuộc sống
máy móc hiện nay, nhà thờ chẳng thể bỏ qua. Cô đơn có lẽ là đặc quyền
của những người già. Một đời có lăn lộn thế nào đi chăng nữa thì cuối
đời đều có chung một mẫu số cô đơn. Còn nhúc nhích được thì ra khỏi
nhà ngồi phơi người hàng giờ trên những hàng ghế dọc theo hành lang
các shopping center nghếch ông đi qua bà đi lại cho bớt quạnh quẽ. Hết
nhúc nhích thì gậm nhấm nỗi cô đơn trong bốn bức tường, thèm được nói,
thèm được nghe, thèm được chú ý, thèm được săn sóc, thèm hơi ấm của
người khác.
Giữa một buổi lễ, một bà đại diện một hội đoàn từ
thiện lên trước máy vi âm kêu gọi mọi người tham gia vào việc thăm viếng
thường xuyên những người già cô đơn đang sống quanh khu vực nhà thờ.
Bà đại diện ăn mặc chải chuốt, nói năng cảm động làm mọi người mủi lòng.
Mậu cũng không tránh được cái cảm giác xót xa, buồn chán cho thân phận
của những con người sắp đi hết vòng cuộc đời. Cảm là cảm thế thôi, cái
thân phận lưu xứ, ăn nhờ ở đậu thì làm được gì!
Cuối lễ, bà đại diện đứng ở cửa bắt tay chào mời mọi
người tham gia công tác. Bà bắt tay Mậu, giữ bàn tay anh khá lâu, lại
còn dùng bàn tay còn lại úp lên trên hai bàn tay đan chéo nhau, nở nụ
cười duyên dáng, nói bằng cái miệng ưa nhìn:
" Chào ông, tôi là Cecile, hồi nãy đứng nói chuyện,
nhìn xuống thấy ông ngồi ở dưới, tôi mừng lắm. Chẳng là chúng tôi có
trường hợp một ông già người Việt Nam, rất cô đơn, mà chúng tôi nghĩ
là nếu tìm được một người đồng hương của ông ấy tới thăm thì chắc ông
ấy mừng lắm. Tôi hy vọng ông là người Việt Nam."
Cặp mắt xanh biếc đón chờ mở rộng trước Mậu. Anh không
nỡ kéo dài giây phút chờ đợi này.
" Bà không phải hy vọng. Tôi đúng là người Việt
Nam. "
Tiếng thở phào thoát ra với cặp mắt nhắm ngơi nghỉ
và bàn tay thuôn thả chặn trên ngực người đàn bà lịch lãm. Cặp mắt mở
ra, như xanh hơn, mang vẻ khẩn khoản:
" Tôi lại hy vọng là ông sẽ nhận lời cộng tác
với chúng tôi. "
Khó có thể từ chối với một con người đẫm thiện ý như
vậy, Mậu đưa mắt dò hỏi và đọc được tín hiệu trên mặt vợ, anh lịch sự:
" Bà lại không phải hy vọng. Dĩ nhiên là tôi phải nhận lời. Làm
sao tôi có thể quay lưng không chu toàn bổn phận của tôi đối với một
đồng hương đang gặp nghịch cảnh. "
Mậu đã tận mắt nhìn cái nghịch cảnh đó vào một buổi
chiều thứ bảy rảnh rỗi. Ông Thạnh giương cặp mắt mệt mỏi ánh lên một
chút mừng rỡ, dựa người trên chiếc gậy chống có bốn chân, mở cửa phòng
đón Mậu. Hai bệt lông mày như hai thanh đao bạc sắc sảo cùng chòm râu
dài như cước tỏa xuống từ một khuôn mặt còn in dấu quắc thước làm Mậu
thấy mình đã nghĩ đúng khi điện thoại cho ông Thạnh hai ngày trước.
Giọng nói điềm đạm, sang cả đượm một chút khinh khoái đã làm Mậu ngờ
rằng ông Thạnh đã có thời vàng son nơi quê nhà. Mối bận tâm của Mậu
đã được gỡ bỏ ngay từ cái bắt tay đầu tiên với ông Thạnh. Cái giọng
sang sảng vồn vã đón chào như vừa gặp lại một người thân xa cách lâu
năm:
" Chào ông! Gặp ông tôi mừng lắm. Mời ông vào
chơi. "
Mậu lách mình qua khuôn cửa không quên nhẹ nhàng khép
cánh cửa lại sau lưng. Anh bỗng thấy có cảm tình đặc biệt với ông già
có dáng vẻ tiên phong đạo cốt trong bộ bà ba màu nâu mềm này.
" Kính bác! Trông bác khỏe mạnh và quắc thước
quá. "
Mậu nhìn thấy vẻ rạng rỡ trên khuôn mặt ông Thạnh.
" Tám chục rồi đấy ông ạ! Sống bây giờ là sống
thêm thôi. Trời cho được chút nào thì lãnh nhận chút nấy. Được cái hồi
trẻ tôi chẳng rượu chè thuốc xái gì, lại ham mê thể thao, siêng năng
tập thể dục nên sức khỏe còn khá. Chỉ phải đôi chân. Như hai khúc gỗ
mục ấy ông ạ! Đi đứng khó khăn lắm. Cũng cái chứng phong thấp ấy mà!
Nhưng bên này thời tiết lạnh giá nên nó hành dữ quá. Trời chưa chuyển
thì mình đã chuyển trước. Chưa gió, chưa mưa, chưa tuyết thì đôi chân
đã mách cho biết trước rồi. Tôi mà làm tiên đoán thời tiết như mấy ông
bà trên ti vi thì đố có sai được à! "
Ông Thạnh cất giọng cười rổn rảng. Hình như sự có
mặt của Mậu đã thắp được sinh khí nơi ông Thạnh. Mới sơ ngộ mà như đã
thiết thân.
Chiếc bàn thấp giữa bộ xa lông bề thế lủ khủ nào bình,
nào tách, nào hộp, nào chai. Bên cạnh bàn là chiếc ấm nấu nước được
đặt trên một chiếc vỉ nhôm đã ngả màu. Ông Thạnh mở chai nước suối rót
vào ấm. Mậu vội đưa tay đỡ.
" Bác để cháu làm cho. "
" Ông để mặc tôi. Quen rồi. Không sao đâu. "
Hai bàn tay run run chắt chiu từng giọt nước.
" Cái anh nước suối này không bằng được nước
mưa bên mình nhưng được cái tinh khiết. Đời tôi chỉ còn có trà với cái
ti vi làm bạn. Cũng còn có mấy ông bạn già ngày xưa thỉnh thoảng điện
thoại thăm nhau. Chao ôi! Mỗi người ở một nơi, nói chuyện với nhau tốn
tiền lắm. Mà già rồi, ông biết đấy, tai nó cũng nghễnh ngãng, nghe câu
được câu chăng, cứ lặp đi lặp lại càng tốn tiền dữ. Rút cục chỉ còn
cái thú độc ẩm. "
Khói từ miệng ấm phun lên giục giã. Ông Thạnh vội
châm nước vào bình trà. Ông pha trà như tu sĩ làm một nghi lễ nho nhỏ.
Rửa trà xong, ông mới vòng quanh chuyên trà từ ấm qua chén tống, rồi
chén quân. Đôi bàn tay đày gân xanh cộm lên từng nùi thành thạo chuyển
quanh. Mùi trà thoang thoảng nhẹ nhàng.
Mậu chăm chú nhìn lên những tấm hình nằm giữa những
bình hoa cùng đèn cày, thấp thoáng sau bát nhang chi chít những chân
nhang đã phai màu. Hình người đàn ông có khuôn mặt giống ông Thạnh,
còn hai người đàn bà phảng phất vẻ nhu mì hiền hậu như nhau. Ông Thạnh
đảo mắt theo Mậu nói như người đi lạc ra khỏi thời gian:
" Mới đó mà đã thế đó! "
Mậu bắt gặp cặp mắt thờ thẫn chìm lỉm vào tận nơi
não nơi nao. Anh khẽ hỏi:
" Bác nói sao ạ ? "
Khuôn mặt nhẹ phác một nụ cười chỉ đủ làm rung rinh
chút đỉnh hàm râu nề nếp:
" Kể cũng tức cười ông ạ. Mới ngày nào nhà tôi
về làm dâu được mẹ tôi thương yêu chỉ bảo từng chút như dạy con gái.
Vậy mà bây giờ sóng đôi nhau trên bàn thờ trông cứ như hai chị em ấy
ông nhỉ! "
Hai người trong hình cỡ cùng trạc tuổi như nhau. Nếu
không khác nhau về kiểu tóc và kiểu áo Mậu chắc chẳng đoán được người
nào là mẹ người nào là dâu. Thời gian bào mòn đời người, khi con người
lách ra khỏi đời, thời gian chỉ biết giương cặp mắt bất lực làm lơ.
Ông Thạnh chẳng làm lơ được với thời gian. Ông vẫn phải đếm từng mùa
bằng những cơn nhức chân, đếm ngày giờ bằng nỗi cô đơn lạnh lẽo. Ông
gỡ cặp kính khỏi mắt, túm vạt áo lau rồi đeo lên lại. Ông nhìn Mậu giọng
rầu rầu:
" Nhà tôi mất cũng đã gần hai năm rồi. Rằm tháng
tới là ngày giỗ đấy ông ạ! Bữa hôm đám nhà tôi trời sang xuân. Đầu mùa
xuân bên này lạ lắm không biết ông có thấy không. Trời đất rầu rầu,
gió thốc gió thác. Tôi đứng bên mộ nhà tôi, tai nghe giọng tụng kinh
trước khi hạ huyệt mà tưởng như nghe tiếng vọng từ đâu dội về. Gió từng
chập thổi người tôi ngả về phía sau. Phía sau là mộ của tôi. Chẳng là
khi mua đất tôi mua luôn cho tôi để sau này vợ chồng nằm cạnh nhau cho
ấm cúng. Tôi nghĩ là nhà tôi nhờ gió rủ tôi đi với bà ấy. Lúc còn sống
bà ấy khôn khéo lắm. Tôi thầm hứa sẽ thăm nom bà ấy luôn. Thế mà chân
cẳng đổ đốn chẳng một lần ra với bà ấy được. Tội nghiệp! Một đời chỉ
biết chồng con mà khi nằm xuống mồ mả lạnh tanh. Chồng chẳng một lần
thăm viếng mà con cũng chẳng thấy mặt. Được cái bà ấy nằm trong nghĩa
trang Việt Nam, chung quanh toàn người mình cả nên chắc cũng bớt cô
quạnh. "
Ông Thạnh lại gỡ cặp kính xuống lau chùi. Tròng mắt
ông hướng xuống những ngón tay xoa trên mặt kính mà như không nhìn vào
đâu cả. Cánh mũi ông phập phồng cố chặn lại những xúc động đang muốn
òa vỡ ra. Ông gài kính lên mắt, vội với tay rút tờ giấy nằm ló ra khỏi
hộp giấy bên cạnh, kín đáo chặn lên mũi. Mậu muốn kéo ông ra khỏi cơn
xúc động nhưng anh lúng túng vụng về chẳng biết phải làm sao. Anh vốn
không được khéo miệng nên mỗi lần muốn nói lời an ủi anh phải chạy đuổi
theo nó mướt mồ hôi mới bắt được. Câu an ủi anh bắt được vào lúc này
chẳng lấy gì làm xuất sắc cho lắm.
" Mỗi người một phần số bác ạ. Người chết thì
yên phận người chết. Chỉ có người còn lại mới chìm vào những dằn vặt
nhớ thương. Bác gái đi trước bác như vậy có khi lại yên bề... "
Mậu ấp úng với từng chữ khó khăn trườn ra khỏi miệng.
Anh chưa xong được câu an ủi nặng nhọc thì ông Thạnh đã cắt lời anh:
" Ông nói đúng đấy. Bà ấy đi thì còn có tôi lo
toan mọi chuyện. Tới lượt tôi thì chẳng biết sao. Chẳng dấu gì ông,
tôi cũng đã tự lo cho tôi rồi. Tôi đã đóng tiền cho nhà đòn xong xuôi.
Khi tôi đi chắc chẳng phải phiền tới ai. "
" Bác không còn ai thân thích sao? "
Ông Thạnh cười gằn:
" Không ông ạ! Chỉ có hai thằng con! "
Câu nói mát của ông già đơn côi làm Mậu vội hỏi tới:
" Các anh ấy ở đâu hả bác? "
" Ở ngoài tầm mắt tôi! Mà thôi, ông dùng nước
đi kẻo nguội. Cái anh trà này được lắm ông ạ. Uống vào thấy chát nhưng
là cái chát đậm đà vị ngọt còn nằm mãi trong cổ. Mời ông! "
Ông Thạnh chờ cho Mậu nhấp xong một ngụm trà, nhìn
anh bằng cặp mắt vừa ý, rồi mới từ tốn nâng tách trà lên uống. Ông nhấm
nháp vị trà với đôi mắt lim dim sảng khoái.
" Ông Mậu à! Đời sống kỳ diệu lắm ông ạ. Trời
chẳng cho ai nhiều mà cũng chẳng ép ai ít. Phúc phần của mỗi người chỉ
có bấy nhiêu thôi. Lãnh ít trước thì được bù sau, lãnh tất cả thì cuối
đời chẳng còn được chút nào. Tôi thuộc loại thứ hai. Đời tôi phải kể
là may mắn và thành công. Ra buôn bán đặt tay vào đâu là tiền nhảy ra
tới đó. Tiền vô nhanh có lúc làm tôi phát sợ. Luật bù trừ là cái luật
chẳng bao giờ sai sót của trời. Nhưng cái quyến rũ của đồng tiền nó
lạ lắm ông ạ. Chẳng biết bao nhiêu là đủ. Có một thèm hai, có hai thèm
ba, có bao giờ dứt cơn thèm đâu. Mà cái sức mạnh của nó cũng làm cho
người ta hào hứng lắm. Ôm đống tiền trong người, đầu óc bày đặt ra nhiều
chuyện cho thỏa mãn cái tham vọng của con người. Trường hợp tôi thì
là danh vọng. Tôi ra ứng cử dân biểu. Làm gì mà không dính! Tôi đổ tiền
ra góp công xây nhà thờ, cúng dường cho chùa, biết phải trái với quan
quyền. Những cái đó nó ra phiếu cả đấy. Được cái khi đã đắc cử tôi có
giúp đỡ cho dân chúng trong đơn vị tôi một cách cụ thể. Cũng là nhờ
tiền của sẵn có cả. Mùng mền, chăn chiếu, vải vóc, thuốc men, gạo nước,
chén đũa... những người nghèo đều được tôi trao tận tay. Ai cũng bảo
tôi có lòng tốt lo cho dân nhưng ngồi xét lại tôi thấy chẳng qua là
tôi có phần thích được xưng tụng, lại có phần sợ nữa. Sợ cái luật bù
trừ ấy ông ạ! Không cho bớt đi thì sợ tai họa sẽ giáng xuống nhà mình.
Bây giờ già rồi ngồi xét lại tôi thấy tôi không hẳn là người tốt nhưng
cũng không ra người xấu. Làm phúc cho người mà vẫn nghĩ tới mình. Cái
phúc của tôi, tôi đã tiêu hết, giờ ngồi co ro một mình, muốn nhấc cái
chân cũng tuế toái. Trời công bằng lắm ông ạ! "
Ông Thạnh đưa cặp mắt ủ dột nhìn Mậu. Những nếp nhăn
chằng chịt trên mặt như vừa được khắc sâu thêm. Mậu lặng câm chẳng biết
nói gì. Điều thắc mắc trong anh làm anh loay hoay lựa chữ để thốt nên
lời. Ông Thạnh có nhắc tới hai người con nhưng lại cố tình gạt đi không
nói về họ. Anh muốn hỏi cho ra lẽ mà không biết bắt đầu như thế nào
cho khỏi sỗ sàng tọc mạch. Anh chạy vòng quanh.
" Sao bác không thuê một phòng trong nhà già
ở cho có bạn? "
Ông Thạnh gạt phăng:
" Chịu thôi ông ơi! Nhìn cái mình tàn tạ đã thấy
chán mớ đời huống chi còn phải nhìn cả chục, cả trăm cái tàn tạ khác
quanh mình. Nản lắm ông ạ! Ở đây còn thấy có sinh khí. Chiếc cửa sổ
đó nhìn xuống một công viên nhỏ. Tôi cứ bắc ghế ngồi nhìn người ta sống:
đám trẻ chạy nhảy, đám thanh niên tình tự, đám già tản bộ loanh quanh.
Tôi thuộc thói quen của từng người, thấy lắm cái tức cười thú vị lắm.
Mình không tham dự vào cuộc sống được thì ngồi làm khán giả vậy. Vé
hạng ban công mà lại không mất tiền mua. Dễ mà được à! "
Ông Thạnh cất tiếng cười khục khục. Mậu nghe được
cái mai mỉa lẫn phiền muộn trong tiếng cười phát ra từ chòm râu trắng
bạc. Anh vòng trở lại với cái thắc mắc đang dính cứng trong đầu:
" Phải chi bác có con cháu tới thăm nom thường
thì bác còn cảm thấy thú vị gấp bao nhiêu ấy chứ! "
Ông Thạnh ngước đầu lên nhìn Mậu. Đôi mắt ông như
căng ra. Mậu bối rối nóng bừng vành tai. Anh nhìn thấy vẻ trách móc
trên khuôn mặt cố giữ điềm đạm. Mãi rồi ông Thạnh mới buông ra một câu
miễn cưỡng:
" Thì cũng có đấy chứ ông! " Ông Thạnh chùng
giọng hỏi tiếp " Hình như đàn ông bây giờ đụt hơn thời xưa nhiều
ông nhỉ ? "
Mậu ngỡ ngàng không biết trả lời sao. Thời ông Thạnh
chắc phải khác bây giờ. Thời đó nhiều phần là phu xướng phụ tùy, thời
anh thì cả hai cùng xướng chẳng có ai tùy, bây giờ có lẽ lại chỉ có
một người xướng, mà người xướng đâu có phải là những anh đụt như ông
Thạnh vừa bỉ thử. Anh e dè trả lời:
" Dạ, thời bây giờ nam nữ bình quyền nên chắc
chẳng được như thời bác. "
Ông Thạnh lớn tiếng như nạt nộ Mậu:
" Nam nữ bình quyền! " Miệng ông bĩu dài
làm hàm râu cong lên " Làm gì có chuyện đó. Bây giờ chúng nó đội
vợ lên đầu thì có! "
Cái nút thắc mắc của Mậu như được cởi lơi ra một chút.
Anh mạnh dạn lần theo sợi dây oan nghiệt.
" Chắc các anh ấy làm bác không vừa lòng? "
Ông Thạnh như chợt nhận ra sự giận dữ làm ông trượt
chân vào sự bất nhã, ông nhẹ giọng gượng lại:
" Ông tính sao mà vừa lòng được. Nuôi cho ăn
học, đỗ đạt thành tài, cũng bác sĩ kỹ sư như ai, vậy mà ngu. Vợ phán
một câu nghe một câu, phán hai câu nghe hai câu, chẳng biết thế nào
là phải trái. Ấy, xin lỗi ông, tôi giận dữ nói chẳng ra đầu ra đuôi
gì cả làm sao ông hiểu được. Để tôi trình bày rõ ràng lại vậy. Tôi có
hai thằng con, thằng lớn là cái thằng bác sĩ đó, rước được con vợ chỉ
biết có tiền. Tham gì mà tham lạ tham lùng. Thằng thứ hai là thằng kỹ
sư điện toán, lấy vợ đầm xài tiền như vứt giấy vụn, lúc nào cũng túng
thiếu. Hai đứa con dâu biết vợ chồng tôi còn tiền nên xúi chồng về nã.
Vợ chồng tôi nghĩ tiền thì sau này cũng cho chúng nó thôi nên cũng chẳng
khắt khe chi. Nhưng càng cho thì chúng càng làm tới. Đứa nọ tị nạnh
đứa kia. Xào xáo tất cả. Đời tôi đã có kinh nghiệm với tiền ông ạ. Khi
mình để cho nó lộng hành che lấp tất cả lẽ phải trái thì hậu quả không
biết tới đâu mà lường. Vợ chồng tôi bàn với nhau là không thể để cho
tình cảm gia đình lao đao với tiền bạc được nữa. Chúng tôi khuyên bảo
con cái đừng lụy vào tiền mà phải lấy cái tình ra đối đãi với nhau.
Ai ngờ không biết chúng nó nghe vợ xúi bẩy ra sao mà đổ hỗn với bố mẹ.
Hồi nãy tôi có nói với ông cái phúc của tôi hết rồi là vậy đó. Có con
mà như không. Hôm đám bà ấy chúng có về chịu tang cho có hình thức,
nhân tiện nói với tôi về những dự án lớn lao cần vốn. Thấy tôi lơ là
chúng lại bỏ đi một nước. Chẳng dấu gì ông, tôi đã làm chúc thư xong
xuôi rồi. Tiền bạc tôi cống hiến cho các hội thiện như trả nợ cho cuộc
đời vợ chồng tôi. Một phần tôi cũng dành lại cho chúng nó. Nước mắt
bao giờ cũng chảy xuôi mà ông. Ông dùng thêm trà nhé! "
Bình trà run rảy trong đôi tay ông Thạnh. Một tay
cầm quai bình, một tay tựa trên nắp, ông Thạnh dốc ngược bình trà như
muốn trút tất cả những não nề ra khỏi miệng vòi. Khuôn mặt cố gượng
che dấu những xót xa làm Mậu thấy bất nhẫn. Anh muốn dìu ông già não
nề này ra khỏi những buồn phiền khốn khổ.
Khi anh ngỏ ý muốn đưa ông Thạnh ra ngoài chơi vào
cuối tuần tới, ông chối đây đẩy:
" Thôi ông ạ! Tôi đi đứng bây giờ phiền phức
lắm. Chẳng dám làm nhọc công ông đâu! "
Mậu nài ép mãi ông mới rụt rè nói:
" Tôi bây giờ còn thiết gì nữa. Nếu không phiền
ông quá đáng thì ông làm ơn cho tôi lên với nhà tôi một chút. Lâu không
thấy chắc bà ấy cũng mong tôi. "
Giọng ông Thạnh bình thản như nhắc tới một người vẫn
quanh quẩn đâu đây. Chưa hề ngưng thở, chưa hề nằm cô quạnh dưới mộ
sâu trong một nghĩa trang lạnh lẽo.
Nghĩa trang nằm ở phía đông thành phố, sát bên cạnh
xa lộ. Khi Mậu cho xe vượt qua cánh cổng sắt sơn đen cao nghều nghệu,
ông Thạnh đảo mắt nhìn quanh vẻ háo hức như được trở về một nơi chốn
quen thuộc. Những con đường nhựa đen mỏng nằm gác vào nhau như những
vạch kẻ trên một bàn cờ rộng lớn. Màu xanh óng ả của những thảm cỏ bị
những ngôi mộ nằm đè lên ẩn hiện sau những hàng cây chạy dài theo hai
bên đường. Thế giới của những người không còn chung cuộc sống đời này
êm ả lạ thường. Mậu cho xe chạy tới góc cuối của nghĩa trang vượt qua
khối đá cao bằng đầu người có khắc chữ đánh dấu lối vào của khu Việt
Nam. Mậu dừng xe dìu ông Thạnh xuống. Ông tựa vào chiếc gậy run run
đứng dậy, sửa lại áo quần, ngơ ngác nhìn quanh. Gió phần phật như những
bàn tay chào đón vẫy gọi. Mậu dìu ông tới phần mộ bà Thạnh nằm gọn giữa
những nấm mộ đồng hương. Ông Thạnh lặng người trước di ảnh vợ. Dường
như ông đã hóa đá mặc cho Mậu vất vả ngăn gió đốt đỏ nắm nhang mang
theo. Khi những cây nhang nhẹ nhàng vươn khói trên mộ ông Thạnh mới
nấc lên một tiếng nhỏ. Đôi mắt ông đỏ hoe sững sờ bất động. Chòm râu
trắng bạc mê mải uốn mình theo gió. Hai tay nắm chặt đầu gậy, ông như
ngả người trên khúc cây nâu bóng. Mậu im lặng đứng bên cạnh, tai nghe
những tiếng thầm thì đều đặn nửa như tiếng cầu kinh nửa như những câu
chuyện trò thân mật vợ chồng.
Thấy ông Thạnh ngả nghiêng, Mậu vội dìu ông ngồi xuống
chiếc ghế đá trước mộ. Ông thoải mái dựa lưng nhìn những chiếc mộ nằm
sóng nhau trước mặt. Mậu đốt một nắm nhang mang cắm trên những ngôi
mộ chung quanh mộ bà Thạnh. Tiếng ông Thạnh bạt theo gió:
" Ông thấy chỗ nằm của tôi đó không? Nằm như
vậy tôi sẽ nhìn về hướng này. " Bàn tay ông Thạnh chỉ về phía sau
lưng " Tôi ngắm phong cảnh trước để sau này nằm xuống còn biết
tầm mắt mình hướng về đâu. "
Mậu nhìn theo tay chỉ của ông Thạnh. Bàu trời xanh
biếc bị ngăn chặn bởi những bóng cây nằm sin sít bên hàng rào nghĩa
trang. Một vài tiếng chim lẻ loi cất giọng trên những tàng cây rậm rạp.
Ông Thạnh lau mắt nghẹn ngào:
" Chắc bà mong tôi lắm phải không bà? "
Giọt nước mắt mong manh trên đôi má nhàu úa của ông
Thạnh theo Mậu tới nhà thờ vào chiều tối ngày thứ năm Tuần Thánh, ngày
Chúa dùng bữa tiệc ly với đám môn đệ trước khi đi nộp mình chịu chết
trên thập giá. Tiếng hát thảm thiết vật vã của ca đoàn cũng làm Mậu
ớn lạnh như câu nhắn nhủ của ông Thạnh trước khi rời mộ vợ ra về. Ông
Thạnh chờ mong cái chết như một sự giải thoát. Nhẹ nhàng như thể ông
bước qua một cánh cửa đã mở sẵn. Cõi sanh và cõi tử như áp sát vào nhau
chẳng một cách chia. Đứng bên này hay đứng bên kia đâu có khác gì nhau.
Trước khi ra đi Chúa đã làm một cử chỉ thân ái và
khiêm nhường là cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Nghi lễ rửa chân
được lập lại mỗi năm trong nhà thờ vào ngày thứ năm Tuần Thánh. Mậu
chẳng bao giờ quên được nét mặt vui mừng và hãnh diện của ông nội anh
ngày xưa khi được chọn làm một trong số mười hai người tượng trưng cho
mười hai tông đồ ngồi trên ghế cho vị linh mục chủ tế rửa và lau bàn
chân mặt. Qua đến bên này Mậu chẳng còn được nhìn thấy cảnh vị linh
mục ngồi lê dưới đất rửa từng bàn chân đã được kỳ cọ sạch bóng ở nhà.
Ngôi nhà thờ anh đang dự lễ trong mùi trầm hương thơm ngát thuộc về
một xã hội rất ngại ngùng trong việc ban đặc quyền đặc lợi. Mọi người
đi dự lễ đều được đối xử như nhau, nam cũng như nữ. Để cả nhà thờ giơ
bàn chân ra cho vị linh mục rửa quả có bất tiện. Vì vậy nghi lễ rửa
chân đã trở thành nghi lễ rửa tay. Linh mục đứng rửa tay cho tất cả
các giáo dân có mặt trong nhà thờ như một cách thánh tẩy cuộc sống trong
ngày tiễn biệt Chúa đi vào cõi chết. Thời gian có cái mãnh lực làm thay
đổi những tập tục của cuộc sống. Phải chi ông Thạnh hiểu được lẽ biến
hóa thông thường này. Hai người con của ông làm sao có thể lập lại được
cuộc sống của ông. Mà đòi hỏi ông Thạnh sự cảm thông hoàn toàn với sự
thay đổi sát sạt của một cuộc sống đã được dời qua cả một đại dương
thì cũng khó cho ông quá.
Mậu đang trên đường đi xuống chỗ ngồi ở cuối nhà thờ
với bàn tay vừa được thánh tẩy thì bà Cecile tiến tới chặn anh lại.
Bà giơ bàn tay còn mát lạnh hơi nước cho anh bắt với nụ cười hiền hậu.
" Cám ơn ông đã tới gặp ông cụ mà chúng tôi giới
thiệu nhờ ông thăm viếng an ủi. "
Mậu bối rối chẳng biết trả lời ra sao. Kể cũng ngộ,
một người bản xứ lại cám ơn một bổn phận thông thường của một người
Việt dành cho một đồng hương già nua đơn chiếc. Anh ngượng ngùng nhoẻn
miệng cười. Tay anh vẫn nằm êm ả trong tay bà Cecile. Anh bỗng chợt
cảm thấy cử chỉ rửa tay như một cách thế truyền đạt sự thanh thản của
cuộc sống cho người khác. Phải chi ông Thạnh cũng được rửa tay!