Này, Phương, mấy cái hồ sơ tao để trên bàn mi lo xong
rồi cho nó đi cho rảnh nợ. Tao không muốn nhìn thấy chúng nữa. Mấy vụ
cần theo dõi tao có ghi trên tấm giấy ghim vào tường đây. Mi nhớ để
mắt qua. Có gì lạ cần bàn với tao, mi cứ điện thoại hoặc e- mail nghe!
Còn gì nữa không hè? Chút nữa quên, cái báo cáo đặc biệt tao đã in ra
rồi. Khỏe cho mi nhé. Nhưng mi xem có lỗi gì thì sửa dùm. Chính tả thì
tao dở, văn phạm thì tao cũng thua mi, vậy mi cứ tự nhiên xuống bút.
Đừng ngại gì cả. Làm người ngoại quốc học tiếng Anh sướng thiệt. Được
học và chịu học. Còn như tao, nó nằm sẵn trong người, vung tay ra là
viết, viết dễ dàng như ăn, có ai ăn mà nghĩ bao giờ, vậy là lỗi ngổn
ngang, lỗi mà chẳng biết lỗi. Phải nhờ tới người viết như... viết, loại
như mi, sửa mới xong! Ấy chết, chút nữa quên. Mi nhớ tưới dùm chậu cây
trên bàn nghe. Nó đang ra bông đấy, mi thấy không? Tao đã điện thoại
khoe với bà già rồi. Bây giờ mà để nó ngỏm thì mang tội nói dối mẹ.
Mi gỡ tội dùm tao nghe! Cám ơn mi trước. Tao có quên gì không hà?
Mệt cái con nhỏ này quá. Mỗi lần đi công tác là nó
lại "diễn văn" tràng giang đại hải với tôi. Nó thừa biết là
nếu nó không nói lấy một tiếng thì mọi việc cũng sẽ xong cả thôi, vậy
mà nó không nói thì không yên tâm. Tính nó vốn cẩn thận. Tôi vẫn thường
chọc nó già hơn cả bà già nó. Nó chỉ cười. Cái cười thật hiền mang vẻ
tội tội. Tôi chẳng biết tội làm sao nhưng vẫn cảm thấy một cách rõ ràng
như vậy. Tội nó thì tội, tính tôi vẫn thích chọc nó.
"Này, dặn gì mà dặn kỷ vậy? Bộ đi luôn không
về nữa hay sao đây? Mà biết đâu đó, qua bên ấy có khi gặp một hoàng
tử của lòng em là rồi đời. Còn nhớ chi tới cái xứ Boston già nua cũ
kỹ này nữa!"
Tracy hây hây đôi má, đấm nhẹ trên lưng tôi.
"Có gặp được hoàng tử thì cũng phải cưỡi mây
về báo cho mi biết, chứ không thì nhức đầu nhức óc với mi chịu gì nổi.
Này, mi cố tập lấy cái tính ngậm miệng cho quen đi. Ở nhà đã khổ chồng
con, tới sở lại khổ thêm tao nữa, không hiểu ngoài đường ngoài xá có
còn tên nào phải khổ nữa không?"
Tracy né tránh cú đấm của tôi, miệng vẫn tía lia.
"Này, sức mạnh không giải quyết được gì đâu trừ
khi trên võ đài. Chịu khó bóp mồm bóp miệng lại rồi khi về tao mua quà
cho. Mi ưng chi? Mua cho mi một lố băng keo về dán miệng nghe? "
Con nhỏ này quá đáng. Miệng tôi thấm gì với miệng
nó.
"Thôi được rồi. Cám ơn mi. Khỏi phải mua gì cho
tao. Giữ tiền bỏ nhà băng nhìn cho sướng mắt. Ai cũng ưa tiền cả nhưng
mi ưa hơn mọi người một chút thôi! "
Tracy trợn mắt làm bộ nạt tôi.
"Tao biết tao còn nợ mi một chầu ăn trưa thứ
sáu. Cứ yên tâm, về tao sẽ trả, khỏi phải nhắc khéo. Thôi tao đi nghe.
Ở nhà một mình đừng có khóc. Con nít khóc là xấu, già rồi khóc cũng
vẫn cứ xấu như thường."
Không lại miệng được với con nhỏ này. Cái miệng nó
trông xinh như miệng thiên thần mà bẻ cong bẻ quẹo đến tài. Tôi chịu
thua.
"Ừ, mi đi bằng an!"
Tôi định giỡn thêm theo kiểu phim bộ "Nhớ bảo
trọng!" nhưng nhìn thấy mái tóc hoe nâu của nó tôi nản. Nó hiểu
sao được. Tracy với tay lấy tấm hình bé Mai trên bàn của tôi, kê lên
miệng hôn lia lịa.
"Nói với con chó con tao sẽ mua quà về cho nó.
Nó vẫn thích chú vịt Donald chứ gì? Chắc thế nào tao cũng ghé Disneyland."
Disneyland, đối với Tracy, mãi mãi là một nơi xa vời
vợi. Tôi vừa vào tới sở, chưa hớp được một hớp cà phê buổi sáng, chuông
điện thoại đã gắt gỏng, giọng David hốt hoảng.
"Phương, xuống cantin ngay. Lẹ lên!"
Tôi vừa cất tiếng hỏi thì điện thoại đã bị cúp cái
rụp. Chuyện gì mà như giặc tới nhà vậy! Tôi ba chân bốn cẳng xuống cantin.
Gần như cả sở đang chúi mắt vào chiếc tivi kềnh càng lúc nào cũng mở,
đặt nơi góc phòng. Căn phòng đông người im lặng một cách bất thường.
Tôi liếc nhìn vào màn hình. Từ lưng chừng tòa cao ốc, khói quyện với
lửa đang cuồn cuộn bốc ra. Người người nhốn nháo dưới đường. Chưa biết
chuyện chi, tôi cũng không dám hỏi ai. Tôi nhìn thấy David đang to mắt
bên một chiếc bàn ngổn ngang những ly cà phê còn đầy ắp. Tôi đang định
bước tới thì mọi người sửng sốt bưng mặt. Một chiếc máy bay đang lừng
lững chui đầu vào tòa cao ốc kế bên. Ngọt như một lát dao cắm phập vào
một chiếc bánh. Lửa tung tóe ngóc đầu chui ra. Tôi ôm mặt. Người tôi
như muốn rũ ra. Tiếng la thất thanh hoảng sợ, tiếng xướng ngôn viên
trong tivi như những tiếng sóng tiếng gió ầm ì trong tai tôi. Tôi không
thấy David nhích về phía tôi. Giọng hắn đấm mạnh vào màng tang.
"Người ta nói máy bay cất cánh từ phi trường Logan."
Tôi hoảng hốt.
"Chuyến bay nào vậy? Cầu trời không phải chuyến
đi Los Angeles!"
David lắng tai nghe. Tôi cũng chăm chú. Giọng người
xướng ngôn viên rã rời. Tôi nghe loáng thoáng tên một hãng máy bay.
Rồi tôi nghe rõ ràng Los Angeles. David hét lên. Người tôi giật bắn
theo tiếng nấc.
"Tracy!"
David giữ chặt hai vai tôi. Chung quanh tôi ào ào
như đàn ong vỡ tổ. Tôi nhìn thấy những cặp mắt ướt mọng, những chiếc
khăn giấy trắng. Tai tôi vang vang tiếng sụt sùi. Mọi người chết trên
ghế, mặt thất thần. Tôi ngồi lặng. Hình ảnh Tracy chiều hôm trước chập
chờn trong đầu. Tôi mở mắt ra cố xua đi hình bóng đứa bạn thân. Trên
màn ảnh chiếu đi chiếu lại cảnh chiếc máy bay xỏ vào tòa nhà cao ngất.
Như có vết dao cứa đi cứa lại trong tôi. Người tôi như một miếng giẻ
bèo nhèo. Có thật cái cảnh đang diễn ra trước mắt tôi không? Tôi bấm
những ngón tay lên má. Đây là cảnh thật. Và Tracy ngồi trong chiếc máy
bay đó. Người tôi run lên, thịt xương nó được bao lăm mà tan tành trong
cái đống hỗn độn sắt thép khổng lồ đó.
Tracy nặng hơn một trăm pounds chút xíu. Kể cả quần
áo, giày dép. Tôi chọc nó.
"Mi phải trừ đi ít nhất năm pounds đồ phụ tùng
chứ!"
Tracy giang hai tay ra thẳng băng như một cây thập
giá.
"Làm chi dữ vậy! Mi coi xem, quần áo tao nhẹ hều.
Toàn một thứ hàng mỏng manh. Có nặng là nặng cái bảng giá thôi. Cái
đó thì tao tháo ra rồi!"
Chưa chồng con, Tracy có tiếng ăn diện. Phải công
nhận nó có khiếu ăn mặc, trông vừa sang vừa giản dị. Sang mà giản dị
thì thường giá tiền không giản dị. Nó rất chịu chi vào mục áo quần,
bao nhiêu cũng không tiếc. Không như tôi, mua cái gì cũng đắn đo tính
toán. Không mua bộ vest này thì mua được mấy cái áo cho bé Mai, mấy
cái quần cho bé Quân. Tracy cứ đứng cười mỉm mỗi lần đi shop với tôi.
Tôi hơi ngượng, chống chế.
"Mi chưa có gia đình chưa biết. Khó bốc đồng lắm.
Ngày xưa tao cũng vung tay đẹp như mi chứ kém gì. Từ ngày có con có
cái... "
Cái điệp khúc này hình như tôi lải nhải hơi nhiều
lần nên Tracy giơ tay ra cản ngang câu nói.
"Biết rồi! Khỏi nói nữa!"
Nó rất vững vàng bảo vệ cái quyền ăn diện của nó.
Bởi vì nó đang yêu đời. Nó đã bị một chứng bệnh lạ hành hạ cả năm trời,
người cứ héo dần đi. Xuống cân, hốc hác, xanh xao, lúc đó khó mà nhìn
được một cái nhếch mép nơi nó. Ăn vào bao nhiêu cũng như không vì ruột
không hấp thụ được thức ăn. Nó nói tên căn bệnh. Một cái tên khó nhớ.
Tôi cũng chẳng cất công cố nhớ làm gì vì bệnh tật là thứ tôi không ưa.
Tính tôi chết nhát. Cứ ai kể triệu chứng một căn bệnh gì là y như rằng
tôi nghe ngóng trong người và thấy mình cũng có những triệu chứng y
chang như vậy. Những lần đầu tôi hốt hoảng tưởng mình tiêu tùng tới
nơi nhưng rồi qua nhiều lần báo động giả, tinh thần tôi cũng vững thêm
chút đỉnh. Nhưng, cho chắc ăn, tốt nhất là chẳng nên nghe kể về bệnh
tật, hại tim lắm. Suốt hơn một năm Tracy bệnh phải nghỉ làm, tôi ít
khi gặp nó. Chẳng phải vì tôi quên, nhưng cái tính ngại bệnh tật cộng
với cái bận bịu con cái, cộng thêm với cái dấm dẳn không ưa gặp người
khác trong lúc bệnh hoạn của Tracy làm cản trở việc gặp gỡ giữa chúng
tôi. Ngay như điện thoại, cũng chỉ được vài câu chán chường là Tracy
không muốn nói chuyện nữa. Căn bệnh quái ác làm ù lì con người năng
nổ hoạt bát của Tracy. Chỉ khi bệnh chịu thua thuốc, Tracy bình phục,
lên cân, đi làm lại, ngồi chung phòng với tôi, thì tình bạn của chúng
tôi mới lại đỏ như một bông hồng hàm tiếu. Ngày đầu tiên trở lại sở,
Tracy bê theo một chiếc cân để bên cạnh bàn làm việc. Chuyện cân kéo
bây giờ là chuyện thiết thân của con nhỏ. Cùng với cái nhích dần từng
ngày của đầu kim cân, là một thân thể óng ả trở lại, những bước đi xốn
xang, hương hoa sực nức và cái miệng cười giỡn đốp chát với tôi. Cuộc
sống tìm thấy lại là một cuộc sống khác, phong phú hơn, vội vã hơn,
tấp nập hơn.
Cuộc sống tưởng như hoa đó bỗng nhiên bị vùi dập tức
tưởi trong đống sắt thép gạch đá rực đỏ. Cả sở như một nhà quàn. Ngoài
Tracy ra, đoàn đi công tác còn sáu người khác. Bảy cái tang ập tới làm
bại liệt cả trăm người. Mặt mũi đăm chiêu, nói năng đi đứng nhẹ nhàng.
Làm như ai cũng sợ mình làm kinh động, phá vỡ cái không khí trầm uất
lẩn khuất trên từng vuông gạch. Tôi như bỏ rơi cuộc sống. Nghĩ ngợi
chẳng ra nghĩ ngợi, buông thả chẳng ra buông thả, vào ra như người mộng
du. Công việc hình như chẳng là cái mọi người quan tâm tới. Mọi người
tới sở như một thói quen, nhìn nhau như một an ủi, tâm trí mỗi người
một phương. Đầu tôi như bị bó rọ vào từng dáng đi điệu nói của Tracy.
Chiếc bàn của Tracy nằm buồn phiền trong phòng. Mỗi
ngày lại có thêm vài viên đá được xếp lên trên. Tracy theo đạo Do Thái.
Tục lệ của họ là đặt một viên đá để nhớ tới người đã khuất vì đá tượng
trưng cho sự bền vững. Chen vào giữa những viên đá là một cây nến cháy
leo lét do David thắp mỗi ngày. Tôi thì chăm tưới bón cho chậu hoa đang
nở mà Tracy đã căn dặn tôi săn sóc trước khi ra đi. Những bông hoa trắng,
nhỏ, xúm xít vào nhau như sợ lạnh giá cô đơn, làm nước mắt tôi tràn
ra mỗi lần tưới. Chỉ có đóa hồng trắng nằm câm nín trong bao giấy bóng
trắng được cột bằng một sợi dây tím không hiểu của ai đặt trên bàn.
Mỗi sáng, khi tôi tới phòng, bông hồng đơn độc đó đã được thay bằng
một bông mới. Tính tò mò của tôi hình như cũng đã chết theo Tracy nên
tôi chẳng buồn tìm hiểu.
Trời đang ở những ngày nắng ấm, tôi thường bỏ bê công
việc bước ra hành lang nhìn những ánh nắng chói chang soi rõ những đám
mây trắng đang rỗi rãi trôi đi. Tôi đứng lặng nhìn trời như vậy, thấm
thía cái ê chề của cuộc tử sinh. Tracy quấn lấy đầu óc tôi không lúc
nào rời. Tôi tránh nhìn cái bàn làm việc của Tracy một cách vô ích.
Bất cứ nơi đâu, Tracy cũng lững lờ trong tôi. Ngày đầu không nhìn thấy
bóng dáng thân thuộc của Tracy trên chiếc ghế da đen, tôi ôm mặt chảy
nước mắt. Chiếc áo len đen có thêu rải rác trước ngực những cánh hoa
nửa đỏ nửa hồng làm thốn tim tôi. Tracy chịu lạnh dở, có lẽ vì mới qua
cơn bệnh, nên hầu như lúc nào cũng khoác chiếc áo đó khi làm việc. Chiếc
áo len dính trên người Tracy, trong mắt tôi, bây giờ, chính là Tracy.
Nó nằm đó, vắt trên lưng ghế, câm nín như một Tracy mộ huyệt. Tôi sợ
ở trong phòng một mình. Tôi mở toang các cửa phòng hy vọng những bước
chân lui tới ngoài hành lang mang lại cho tôi chút ấm cúng của sự sống.
Cây nến của David leo lét trên bàn như ánh mắt chập chờn của Tracy đang
nhấp nháy với tôi.
David quay quắt với cái chết của bạn. Gặp ai hắn cũng
níu áo giãi bày. Làm như càng nói ra được bao nhiêu thì cõi lòng hắn
lại thêm sự yên ổn bấy nhiêu. Tôi phải lựa lời an ủi hắn. Tai nạn bi
thảm của Tracy biến hắn thành một đứa con nít nhiều mặc cảm khiến tôi
phải nhỏ nhẹ vỗ về hắn như một người mẹ.
"Cậu có trách nhiệm gì đâu mà cứ băn khoăn như
vậy. Tôi chắc chắn Tracy nó chẳng oán cậu một chút nào cả. Chơi với
nó lâu tôi biết tính nó."
Lời giải tội của tôi không thiêng.
"Nếu không có tôi chĩa cái mồm vô duyên này vô
thì Tracy đâu có chết!"
David lại vò đầu vò tai khổ sở.
"Tôi tin là con người có số mạng. Tracy chết là
vì số nó chết. Cậu chẳng phải tự đấm ngực như vậy nữa."
David nhìn tôi. Tôi chưa bao giờ thấy một cặp mắt
xụi lơ và tê tái đến như vậy.
"Số mạng? Có cái số mạng nào ào xuống một lúc
cho trên sáu ngàn con người không? Tôi chẳng tin có một cái số mạng
ác ôn đến như vậy. Không, đúng là lỗi tại tôi mà Tracy chết."
Nếu tôi là David chắc tôi cũng phải tự trách mình
ghê lắm. Nhưng chắc tôi chẳng rã rượi bằng anh chàng có một viền râu
mép trông khá nam nhi này. Bữa đó, trong giờ giải lao, chúng tôi ngồi
trong cantin uống cà phê đấu láo. Tracy bỗng than thở.
"Đầu tuần tới lại phải đi rồi. Sao tôi ngại chuyến
đi này quá. Bay có mấy tiếng mà phải ghé Chicago đổi máy bay. Mệt!"
David nhanh nhẩu.
"Thì coi có chuyến nào bay thẳng thì bạn đổi máy
bay đi!"
Tracy trề môi.
"Bạn làm như dễ lắm. Nếu có chỗ họ đã book cho
cả đoàn rồi. Đằng này chỉ có tôi với Christian rơi lại chuyến sau. Tôi
hỏi bên Hành Chánh rồi chứ bộ. Bạn làm như tôi khờ lắm chắc?"
David đỏ mặt cãi.
"Tôi đi hoài chứ không sao? Họ book bữa đó không
có chỗ nhưng mình cứ hỏi chứ. Máy bay mà! Có người đi thì cũng có người
bỏ chỗ chứ. Tôi vẫn liên lạc thẳng với các hãng máy bay. Có chỗ trống
là đổi được. Mà thường thì có chỗ vào giờ chót!"
Tracy cười duyên. Tôi biết con nhỏ này. Khi nó thả
cái nụ cười lóng lánh kiểu đó là có chuyện muốn nhờ.
"Bạn David này! Bạn quen hỏi thì hỏi dùm Tracy
đi. Được thì khi về có quà đặc biệt."
Mặt David gân lên. Đôi mắt sướng thấy rõ.
"Xong ngay!"
Tracy quay qua Christian, anh chàng lính mới của sở
lần đầu tiên được theo đi công tác để học việc.
"Christian có muốn nhờ David luôn không? Mình
đi cho vui chứ còn trơ lại một mình buồn chết."
Christian lí nhí.
"Anh David hỏi luôn dùm tôi được không?"
David gật gù.
"Dĩ nhiên là được. Ai nỡ để cậu bơ vơ một mình
trên máy bay lạ!"
Christian không đặt chân lên một chiếc máy bay nào
cả. David hỏi chỉ được một chỗ trống. Tracy đổi qua. Chuyến bay của
Christian, dự trù cất cánh vào buổi chiều ngày oan nghiệt đó, đã bị
hủy bỏ. Christian không may mắn nên thoát chết.
Biên giới tử sinh mỏng như một tờ giấy. David có vò
xé tâm can mình thế nào đi chăng nữa cũng chẳng nguôi ngoai được cái
vô tình đẩy nhẹ Tracy từ bờ sinh qua bờ tử. Mỗi lần nhìn cảnh chiếc
máy bay chúi mũi vào tòa nhà World Trade Center, chính tôi cũng cảm
thấy buốt nhói trong đầu, ghê rợn trên da thịt, cồn cào lục tung ruột
gan. Huống chi David. Vậy mà các đài truyền hình ác độc vẫn liên tục
chiếu đi chiếu lại cái cảnh bầm giập đến từng cõi lòng chúng tôi. Ở
sở tôi đã tránh cái tivi dưới cantin, về nhà tôi lại phải đương đầu
với cái tivi nơi phòng khách. Tôi đã cố ngăn chặn nhưng cái cảnh oái
oăm này vẫn lọt vào mắt hai đứa con. Phiền hơn nữa là ở nhà trường cô
giáo đã giải thích cho đám học trò cái đại họa mà đất nước đang chịu
đựng. Vừa bước chân lên xe khi tôi tới đón học, bé Quân đã khoe.
"Máy bay đụng vào tòa nhà chết nhiều người lắm,
mẹ có biết không?"
Tôi giật mình.
"Con nghe ai nói vậy?"
"Cô giáo con. Cô còn cho coi tivi nữa mẹ à! Con
thấy lửa tung ra quá chừng. Trông giống như trong phim vậy!"
Tôi biết mình sắp phải làm gì. Tôi cân nhắc cẩn thận
trước khi nói với con.
"Mẹ cũng có thấy."
"Mẹ có thấy người chết không?"
"Không."
"Con cũng không thấy nhưng cô giáo nói người chết
nhiều lắm. Người ngồi trên máy bay cũng chết mà người ở trong tòa nhà
cao đó cũng chết nữa. Cô bảo tụi con cúi đầu cầu nguyện cho những người
vừa mới chết. Cô khóc mẹ ơi. Con chưa bao giờ thấy cô khóc như vậy.
Ngộ ghê! Mà sao cái ông lái máy bay dở như vậy hả mẹ? Cái nhà to như
thế mà không nhìn thấy!"
Mắt tôi ràn rụa nước mắt. Tôi cố tập trung tinh thần
vào tay lái. Tôi quệt tay lên mặt làm bé Quân nhìn sững.
"Mẹ cũng khóc à?"
Giọng tôi lạc đi.
"Đừng hỏi mẹ nữa. Về nhà mẹ sẽ nói chuyện với
hai đứa. Làm ơn cho mẹ yên."
Những giọt nước mắt của tôi có lẽ là một biến cố lạ
đủ để làm e dè hai đứa nhỏ. Chúng im thin thít ngồi ngó vẩn vơ qua khung
kính xe. Về nhà, đợi tới lúc cho bé Mai và Quân ăn xong chiếc bánh,
uống xong ly sữa, bắt đầu giờ chơi, tôi mới khó khăn bắt đầu câu chuyện.
"Các con có thương dì Tracy không?"
Bé Mai mau miệng.
"Có chứ mẹ. Dì Tracy sắp cho con chú vịt Donald
biết đi."
Con bé mới được tôi cho biết món quà Tracy hứa cho
nó chiều hôm trước, khi tôi dỗ dành đưa nó vào phòng tắm.
Bé Quân đang loay hoay với cả đống lego trên sàn nhà,
không nói năng gì. Mũi tôi cay cay, chắc tôi sẽ nói bằng những giọt
nước mắt quá. Tôi cố giữ xúc động.
"Dì Tracy ngồi trong chiếc máy bay đụng vào tòa
nhà mà các con thấy trên tivi đó."
Bé Quân vẫn bận rộn với đống đồ chơi. Bé Mai nhìn
sững tôi.
"Vậy thì làm sao dì Tracy mua vịt Donald cho con
được?"
Tôi vỗ vai con.
"Mẹ sẽ mua thế cho dì vậy, được không?"
Bé Mai gật đầu.
"OK. Cám ơn mẹ."
Cái chết có lẽ vẫn là điều xa lạ với các con tôi?
Nhưng không, tôi đã lầm. Bé Quân, vẫn bận rộn đôi tay thoăn thoắt lắp
ráp, không nhìn tôi, nói khơi khơi.
"Lớn lên con sẽ lái máy bay."
Tôi nhìn chăm chăm vào Quân. Trên tay nó là chiếc
máy bay ráp chưa xong. Một bên cánh còn cụt ngủn.
"Tại sao con thích lái máy bay?"
"Con sẽ cứu dì Tracy và đưa dì lên trời."
"Con biết là dì Tracy chết rồi chứ?"
"Dạ biết. Chết chôn dưới đất mới khó chứ chết
treo trên cao thì con đưa dì lên trời được!"
"Con ngoan lắm."
Tôi khen con mà không hiểu trong chiếc đầu non nớt
kia cái chết có hình dáng như thế nào.
Cái chết của bảy người trong sở tôi không có hình
dáng những ngôi mộ. Tang lễ được cử hành trong phòng cantin được trang
hoàng lại mang nét sầu não nghiêm trang, nơi chúng tôi thấy chiếc máy
bay đưa họ vào cõi vĩnh hằng, với sự tham dự của thân nhân các người
tử nạn và toàn thể nhân viên trong sở. Không có một chiếc quan tài nào
cả. Thịt xương họ còn tung tóe mắc kẹt đâu đó trong lòng tòa nhà đổ
nát. Bảy người đi xa được nhắc nhở bằng bảy cây nến trắng lớn đặt trên
một chiếc bàn vuông phủ khăn tím. Bảy ánh lửa quặt quẹo như bảy bàn
tay yếu ớt vẫy chào chúng tôi. Bàn tay mi đâu, Tracy? Mắt tôi đăm đăm
chết trên những ngọn lửa leo lét mờ ảo sau làn lệ ướt. Tôi thấy một
lưỡi lửa nhỏ hơn các lưỡi lửa khác quằn quại như muốn níu kéo. Mi đó
chăng? Mắt tôi như có bàn tay Tracy ngoắc ngoắc lúc đứng ở cửa chào
giã biệt tôi chiều hôm trước. Tôi theo mọi người lên đặt một bông hoa
tiễn biệt. Tôi nhẹ vuốt cây nến mà tôi nghĩ là Tracy. Ngủ yên nghe mi!
Tôi mời bố mẹ và các anh chị em của Tracy lên phòng
sau tang lễ. Cây nến của David vẫn bập bùng chợt lóe lên như một nụ
cười. Mọi người lặng đi trước chiếc bàn như đang đứng trước một ngôi
mộ. Hình Tracy trên bàn tươi tắn một cách thảm hại. Những hòn đá đen
trắng chất cao như muốn lấp đi khuôn mặt không chờ đợi cái hẹn với tử
thần.
Tôi bưng chậu hoa trao cho mẹ Tracy.
"Bác mang về tưới tiếp dùm con. Tracy có dặn con
chăm sóc chậu hoa này thay nó."
Mẹ Tracy như đứng không vững, một tay vịn vào thành
ghế, một tay ôm chậu hoa. Bà thều thào qua nước mắt.
"Nó có khoe tôi chậu hoa này. Đẹp quá phải không
cô?"
Tôi không biết phải trả lời sao. Tôi gấp chiếc áo
len trên lưng ghế, vắt lên cánh tay mẹ Tracy.
"Chiếc áo này Tracy vẫn mặc hàng ngày. Bác giữ
dùm nó."
Mặt mẹ Tracy nhăn nhúm như vừa bị vò nát bằng một
bàn tay vô hình. Tôi không cầm được những giọt nước mắt. Tracy, thế
là mi về lại nhà mẹ. Vui không nhỏ? Tôi lau mắt, mím miệng. Hình như
bây giờ tôi mới thực sự thấy mất Tracy.
Tôi nhòe nhoẹt chôn mắt trên bông hồng trắng trong
bao giấy bóng trắng nằm ở góc bàn. Hồi nãy, trong tang lễ, lúc xếp hàng
lên đặt hoa, tôi đã thấy một bông hồng giống hệt như bông hồng này run
rảy trong tay Christian.