Jeff dẫn tôi bước xuống những bậc thang tới bức tường
đen tuyền bằng đá bóng loáng. Ánh nắng từ phía bên kia bức tường hắt
từng vạt lên những tàng lá phía sau chúng tôi. Khách bộ hành tấp nập
đi lại làm nhộn nhạo một nơi đáng ra phải trang nghiêm yên ắng. Jeff
tìm từng hàng chữ màu kim nhũ đứng xếp hàng thẳng băng giăng kín khắp
bức tường dài. Anh quay sang hỏi tôi.
"Ông đoán thử coi có bao nhiêu tên trên bức tường
vĩnh biệt này?"
Tôi quét mắt nhìn dọc bức tường dài từng đoạn thấp
cao, nói đại.
"Chắc phải cả chục ngàn."
Jeff giương đôi mắt lớn như muốn lách ra khỏi trũng
mắt.
"Khoảng sáu chục ngàn đấy ông ạ. Chắc ông không
quen đếm xác người!"
Mặt tôi thoáng đỏ. Câu nói như một lời chế giễu. Mỗi
cái tên là một xác người đã gục xuống nơi quê hương tôi. Thoáng trong
đầu tôi hình bóng những người lính Mỹ lang thang trên đường Tự Do, mặt
mày đỏ ké, nét rạng rỡ như muốn níu lấy những phút vui hiếm hoi của
đời lính chiến xa nhà. Tôi như thấy rõ ràng những chiếc xe nhà binh
kềnh càng, trên xe là những khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và bụi đường,
miệng toác ra la hét ầm ĩ cùng những cánh tay đập mạnh vào thành xe
tạo ra những tiếng động ầm ầm cáu kỉnh. Họ đều là những người lính trẻ,
nhiều người rất trẻ với những khuôn mặt lạc lõng chưa nhả hết thơ ngây.
Có bao nhiêu khuôn mặt tôi nhìn thấy đã trở thành những dòng tên vàng
trên bức tường này?
Jeff lần theo từng tên tìm kiếm. Thỉnh thoảng anh
ngừng lại, miết ngón tay lên một dòng chữ, mặt đờ đẫn vô hồn. Tôi im
lặng chuyển bước bên cạnh. Khuôn mặt Jeff sắc cạnh với những chân râu
quai nón được cạo xát làm đen thêm lớp da vốn đã đen nhánh. Mỗi lần
anh dừng lại nơi một dòng tên, cằm anh bạnh ra, đôi mắt nhiều tròng
trắng như nổi lên thêm những sợi gân máu đỏ thẫm. Tôi cảm thấy nét buồn
trên cặp mắt rũ rượi đó. Anh quay sang tôi, chớp mắt vài cái, ấm giọng.
" Nhìn những dòng tên này ông có phân biệt được
tên nào trắng tên nào đen không?"
Tôi nhìn ngón tay thô tháp đen nháy của Jeff đang
ấn trên một dòng chữ vàng nhũ.
"Tôi thấy ông đang cố miết màu đen trên những
cái tên ông chọn."
Jeff quay mặt vào bức tường, tôi nhìn thấy phía sau
cái đầu nhẵn bóng hình dáng một trái trứng nâu đen.
"Họ là bạn tôi đó. Có những người đã chết cho
tôi được sống."
Tiếng Jeff như vọng từ trong bức tường ra. Trong tôi
như rền vang tiếng bom đạn gào thét xung quanh. Người tôi nổi gai ốc.
Bom đạn là thứ vô tri chúi đầu vào người nào người nấy chịu. Tôi ngửi
thấy đâu đây mùi khét lẹt của chiến trường. Bất giác tôi đưa tay sờ
lên bả vai trái. Tôi không thấy vết sẹo. Nó đã dấu mình dưới chiếc áo
khoác lịch lãm.
"Số phận cả ông ạ! Ngôn ngữ chúng tôi có một câu
nhẫn nhục chịu đựng rất dễ chịu: "Trời kêu ai người nấy dạ."
Mình có đẩy được bom đạn sang cho người bạn nằm bên cạnh đâu. Nó muốn
tìm tới ai thì tìm, mình bất lực. Lỗi chẳng tại ông."
Jeff kéo tôi đi lên.
"Nhưng mình vẫn cảm thấy khó chịu. Như được lãnh
phần thưởng một cách không xứng đáng. Nhiều lúc tôi cảm thấy ngượng
ngùng như là mình đã trí trá với bạn bè. Ngày trở về tôi không có được
niềm vui trọn vẹn. Nhìn một vài khuôn mặt hớn hở như người được bạc
của những người chung chuyến tàu trở về, tôi đã muốn nổi nóng đập nát
những cái vỏ bỉ ổi đó. Họ đâu có lý gì tới những người trở về một cách
lặng lẽ hoặc những người đã nằm xuống nhưng chưa bao giờ có được một
chuyến trở về."
Tôi lẳng lặng đi sau Jeff. Lá cờ Mỹ lạch phạch theo
gió đã giữ bước chân tôi dừng lại trước tượng đài kỷ niệm chiến tranh
Việt Nam. Ba người lính chiến lẳng lặng bước đi bên nhau. Áo trận, áo
chống đạn, ba lô trên vai, dây đạn trên người, súng vất vưởng nằm ngang
trên tay như những khúc củi vô dụng. Đây là một đài kỷ niệm buồn, tôi
chợt nghĩ. Không có những khuôn mặt hăm hở dựng cờ chiến thắng, không
có những cánh tay mừng rỡ giơ súng lên trời cao, không có những chiếc
miệng vui sướng la hét, không có những cặp mắt ánh lên niềm vui. Tôi
nhìn kỹ vào ba khuôn mặt bằng đồng đen. Tôi chỉ thấy vẻ thẫn thờ uể
oải. Jeff quay lui lại, bước đến bên tôi.
"Ông thấy sao?"
Tôi vẫn không rời mắt khỏi tượng đài.
"Một tác phẩm điêu khắc đẹp. Tôi thấy chất người
trong những người lính này."
Jeff cười khẩy.
"Ông có con mắt của người thưởng ngoạn nghệ thuật.
Còn con mắt của con người Việt Nam, ông để quên đâu rồi?"
Jeff vẫn lẳng lặng bước bên tôi. Câu nói làm tôi nhột
nhạt nhưng vẻ mặt Jeff không thay đổi. Hình như Jeff đã có quá nhiều
cay đắng, anh chẳng còn chút nào để mỉa mai tôi. Hoặc giả anh còn biết
giữ chút lịch sự với người mới quen?
Tôi chỉ mới biết Jeff buổi trưa hôm nay, trong cantin
nơi sở làm của Jeff, một công ty lớn tại Hoa Thịnh Đốn. Nghề của tôi
là nghề đi đó đi đây, cứ chỗ nào có chuyện là tôi phải có mặt. Tôi vẫn
đùa với mấy đồng sự người Việt đã từng mặc áo lính như tôi là tôi vẫn
tiếp tục nghề cũ. Nghề Nhảy Dù. Nơi nào có chuyện lớn là mò tới. Ngày
xưa thì là những trận đánh long trời lở đất nơi những địa danh đã đi
vào sử sách, ngày nay là khi những ông chuyên viên của các công ty khách
hàng tại chỗ bó tay, điện thoại viễn liên chỉ dẫn cũng không xong, thì
công ty của tôi, một công ty chuyên bán dịch vụ điện toán, lại phái
tôi tới gỡ rối cho cái dàn máy điện toán đang giở trò đình công. Người
hướng dẫn và cộng tác sát bên tôi tại đây là Hillary, một cô đầm Mỹ
đặc Mỹ. Cao lớn, lịch sự, chải chuốt, miệng lúc nào cũng cài hờ hai
chữ "xin lỗi" và "cám ơn".
Hillary kéo chiếc khay lấy đồ ăn đi trước, tôi theo
sau. Trên khay của tôi mới vỏn vẹn một đĩa rau. Cô quay lại hỏi.
"Ông lấy món ăn chính đi chứ! Nếu ông còn phân
vân thì để tôi hướng dẫn nghe?"
Tính tôi vốn cả nể nhưng chỉ nguyên ngửi mùi đồ ăn
trong cái cantin này tôi đã ứ lên tận cổ. Tôi thực sự không muốn bê
thêm món gì vào khay hết, bèn giở ngón nghề xí xóa.
"Tôi thử muốn làm loài thỏ coi xem sao! Cô có
thấy mấy con thỏ chỉ gậm rau không mà trông cũng thú vị quá sức đi chứ!"
Hillary nhoẻn cười, cái cười có tính toán nên chỉ
hé đôi môi vừa đủ để lộ một vạch trắng như sợi dây nằm ngang.
"Ông đã trót làm người rồi thì ráng mà làm người.
Đâu có phải dễ mà làm thỏ được. Ông thích thịt hay cá?"
Thịt hay cá, tôi chẳng thích thứ nào. Nhưng ngặt nỗi
Hillary đã giao hẹn trước là hôm nay cô mời tôi nên tôi chẳng thể nào
phụ lòng cô được.
"Giữa thịt và cá thì chắc tôi chọn cá."
" OK. Nếu cá thì tôi chọn cho ông thứ này - Hillary
nhanh nhẹn với một đĩa cá bỏ vào khay của tôi - Ông thử xem khiếu thưởng
thức món ăn của tôi có hợp ý ông không. Nếu không thì tôi phải xin lỗi
trước là đã phụ lòng ông thần khẩu của ông. Chắc ông quen có những quyết
định ở chiến trường chứ không phải ở trong cantin."
Cô ném cho tôi một cái nhìn vừa tinh quái vừa dịu
dàng. Câu nói chơi giữa hai chúng tôi lọt vào tai Jeff xếp hàng sau
tôi.
"Xin lỗi tôi hơi tò mò. Ông có phải là người Việt
Nam không vậy?"
Tôi nhìn Jeff và thấy được nét hiền lành trên khuôn
mặt da đen của anh.
" Sao ông đoán hay quá vậy?"
"Cũng không có gì khó khăn lắm. Thấy ông có khuôn
mặt Á Châu lại nghe cô đây nói tới chiến trường. Chiến trường ở Á Châu
thì chỉ có Việt Nam. Hơn nữa tôi đã ở Việt Nam một thời gian khá dài
nên có thể phân biệt được người Việt Nam với những người Á Châu khác."
Tôi lịch sự.
"Rất hân hạnh được biết một người đã có thời gian
cùng hít thở với tôi một bầu không khí. Chắc không khí chiến trường
ông nhỉ?"
Cái bắt tay chặt chẽ như không cần câu trả lời.
"Vâng. Mình đã từng làm chung một job với nhau.
Tôi yêu mến quê hương ông lắm!"
Tôi cám ơn cho phải phép rồi bưng chiếc khay theo
Hillary kiếm bàn ngồi. Bữa ăn qua đi nhanh chóng vì chúng tôi vừa ăn
vừa mải miết bàn luận về công việc đang dở dang. Khi tiếng chuông báo
chấm dứt giờ ăn trưa nổi lên, đĩa cá của tôi mới vơi được phân nửa.
Tôi dợm đứng lên thì Jeff tiến lại phía tôi.
"Tôi phải xin lỗi trước về sự đường đột của tôi.
Tôi đang e ngại không biết ông và cô đây có rảnh rỗi chiều nay để tôi
có hân hạnh được mời đi dùng một bữa ăn thân mật hầu tôi có dịp chuyện
trò làm quen không ạ?"
Hillary khéo léo từ chối vì có việc bận. Tôi thì hết
giờ làm là giờ của lang thang. Thường tới một thành phố nào, tôi ưa
mò mẫm đi bắt cái hồn của thành phố đó. Tôi thích cái job nhiều di chuyển
của tôi cũng là vì cái tính thích đi đây đi đó, sống với từng ngóc ngách
của cuộc sống khắp nơi. Sống quanh quẩn ở một chỗ, người ta chỉ có một
đời sống. Sống cuộc sống du mục, người ta có nhiều đời sống. Lời lãi
thấy rõ. Bởi thế nên tôi chẳng bao giờ bỏ phí thời giờ trong một chuyến
đi. Đi loanh quanh với Jeff có lẽ cũng là một điều hay. Tôi mời vớt
Hillary một lần nửa trước khi trả lời Jeff.
"Tôi chắc chẳng bận bịu gì. Có lẽ chính ông là
người làm tôi bận bịu chiều nay đó!"
Jeff tươi nét mặt.
"Có thể vậy. Thực sự tôi có chuyện muốn nhờ ông
chỉ bảo. Một chuyện tình cảm!"
Tôi cười xòa.
"Nghề của tôi là gỡ rối máy móc. Chắc ông lại
sắp cho tôi thêm một job mới. Gỡ rối tơ lòng!"
Hillary cười lớn. Jeff đỏ mặt.
"Cứ coi là như vậy đi. Tan sở chúng ta đi liền
nghe!"
Rời khu Đài Tưởng Niệm, Jeff dẫn tôi tới một nhà hàng
sang trọng. Anh có vẻ sành rượu và khó khăn trong việc chọn rượu. Anh
hầu bàn phải mời quản lý tới nói chuyện rượu với anh. Anh hỏi ý kiến
tôi. Thật chán mớ đời! Rượu thì tôi uống được nhưng tôi thuộc loại ngưu
ẩm. Uống vô thì biết ngon dở tới một mức nào đó thôi. Lên tới mức tinh
tế thì chịu. Tôi thú thật.
"Tôi dở chuyện này lắm. Ông cứ tự nhiên chọn lựa
đi. Đã từng uống rượu lính thì rượu nào đối với tôi lại không được!"
Jeff chọn xong rượu, nheo mắt với tôi.
"Bộ chỉ có mình ông biết rượu lính thôi, tôi thì
không hay sao?"
"Lính Mỹ các ông là lính nhà giàu, khác với lính
chúng tôi chứ!"
"Tôi muốn nói rượu lính Việt đấy chứ. Chắc ông
không biết tôi đã từng được biệt phái qua các đơn vị Việt Nam nên cũng
đã lăn lóc với rượu nón sắt của các ông chứ bộ!"
Tôi tròn mắt thích thú. Anh này coi bộ chơi được.
Nhìn Jeff cổ cồn cà vạt, áo trong áo ngoài ăn mầu với nhau, tôi giỡn.
"Trông ông thế này, ai biết ông là lính trận!"
Jeff nhìn lại tôi.
"Trông cái mã bây giờ của ông, ai dám bảo là ông
đã từng lội sình!"
Jeff giơ bàn tay thẳng đứng trước mặt tôi, tôi giơ
tay đập lại, cười vang. Jeff nâng ly.
"Mừng gặp lại một chiến hữu thất lạc!"
Tôi nâng ly rượu về phía Jeff.
"Mừng gặp lại một người bạn đã từng đồng cam đồng
khổ!"
Jeff nói về Việt Nam một cách say mê. Anh nhắc tới
Đà Nẵng, Nha Trang, Saigon nhưng nơi anh tha thiết nhất lại là Mỹ Tho.
Anh hít hà với xoài, măng cụt, ổi xá lị, dừa xiêm nhưng nghe giọng anh
tôi ngờ rằng anh mến thành phố này vì cái gì khác hơn nữa. Tới lúc ăn
tráng miệng, Jeff mới mon men vào câu chuyện mà anh định nhờ tôi. Anh
có vẻ lúng túng rút từ túi áo ra một xấp giấy đặt trước mặt tôi. Tôi
nhìn xấp giấy gấp thành nếp, lớn nhỏ so le nhau, phân vân chẳng biết
ý định của Jeff. Anh ngồi lặng thinh, tôi giương mắt thay cho câu hỏi.
Giọng Jeff như đổi khác, nhỏ nhẹ, ngập ngừng, rời rạc. Như thể vừa có
điều gì thay đổi trong con người anh. Tôi chờ nơi anh một lời giải thích
cho xấp giấy đang nằm im lìm trước mặt, nhưng câu nói của anh lại là
một câu hỏi.
"Người Việt Nam các ông hình như không có thiện
cảm với những đứa con lai phải không?"
Tôi không chờ đợi một câu hỏi như vậy. Tới lượt tôi
lúng túng. Biết trả lời sao cho đủ tế nhị với một câu hỏi khó trả lời
như vậy. Tôi ấp úng lựa lời.
"Tôi không chối cãi điều đó nhưng, theo tôi, thì
chuyện chắc cũng không ở mức độ nghiêm trọng lắm đâu. Tình gia đình
bên nước tôi rất bền bỉ nên những đứa trẻ đó, dù sao cũng là một thành
phần của gia đình, vẫn được chấp nhận, được yêu thương, và chúng cũng
dễ dàng hòa nhập được với nếp sống chung quanh."
Jeff dồn tới.
"Nhưng chắc chúng không được coi như ngang hàng
với những đứa trẻ Việt khác?"
Tôi bình tĩnh giải thích.
"Ông nghĩ như vậy cũng không sai. Nhưng ông nên
hiểu là nước tôi là một nước nhỏ, có những tập tục và quan niệm đạo
đức riêng, nên không có được cái nhìn rộng rãi như ở bên đây. Dù sao,
những đứa trẻ lai cũng là những chứng tích sống của một hành động không
được dung dưỡng bởi xã hội. Sự đối đãi, vì vậy, cũng có phần thiệt thòi
cho chúng."
Jeff cười nhạt. Ánh mắt anh như có điều không vừa
ý.
"Thế còn giữa một đứa trẻ lai da trắng và một
đứa trẻ lai da đen thì sao?"
Tôi ngồi lịm. Trong đầu tôi, hình ảnh những đứa trẻ
lai đen trên hè phố hiện ra rõ ràng. Chúng quả là một thành phần hẩm
hiu, sống lây lất dưới sự chèn ép của những đứa trẻ khác, lai trắng
hoặc không lai. Trẻ em cũng như người lớn, thường dễ dàng hòa đồng với
những đứa bé lai trắng hơn. Xã hội hình như mặc nhiên đặt những đứa
trẻ lai đen vào một vị trí đáng khinh thị hơn. Ngẫm cho kỹ, sự phân
biệt này quả là quá đáng nhưng tình cảm xã hội là một điều khó giải
thích. Tôi thực sự chẳng thể tự dối mình nên ấp úng chưa biết trả lời
ra sao. Jeff như bắt được cái lúng túng của tôi.
"Xin lỗi ông về câu hỏi khó chịu của tôi nhưng
chắc ông cũng chẳng cần nhọc công tìm câu trả lời. Tôi đã có câu trả
lời từ trước khi đặt câu hỏi rồi. Chính vì biết như vậy nên tôi mới
cố công làm một việc mà tôi muốn nhờ ông giúp một tay. Khi rời Việt
Nam, tôi có để lại một đứa con lai. Con gái. Tôi muốn nhấn mạnh đứa
con rơi của tôi là một đứa con gái vì tôi biết thân phận của một đứa
con gái lai đen bên Việt Nam long đong hơn một đứa con trai rất nhiều.
Tôi mất liên lạc với mẹ nó khi miền Nam sụp đổ. Từ đó tôi vẫn rắp tâm
tìm kiếm con tôi và Nụ - Jeff cười một cách khó khăn - Nụ là người sống
chung với tôi ở Việt Nam. Tâm trí tôi luôn luôn bị dằn vặt vì đứa con
này, đứa con mà tôi nghĩ nó chỉ được coi như một thứ cặn bã mạt hạng
trong xã hội nó đang sống. Xin lỗi ông về ý nghĩ có vẻ quá khích và
có thể là xúc phạm tới ông, nhưng tôi không dứt bỏ được sự day dứt đó.
Tôi đã đăng báo tìm con, có kèm theo hình con tôi lúc còn nhỏ, và hứa
hẹn sẽ trọng thưởng một số tiền lớn, và kết quả là tôi đã nhận được
một số thư hồi âm. Tiếc thay toàn là thư viết bằng tiếng Việt. Nhờ người
dịch ra không phải là khó nhưng nhờ được người đọc chúng mới là khó.
Bởi vì tôi nghĩ chỉ có một người Việt Nam có lòng đọc những bức thư
này mới phân biệt được đâu là thật đâu là giả, đâu là những người chỉ
bịa đặt với hy vọng lãnh được tiền thưởng và đâu là những người thật
sự biết tin tức con tôi. Gặp được ông tôi như cảm thấy gặp được người
tôi đang cần gặp. Tôi hy vọng ông không nề hà bỏ ra cho tôi chút ít
thời giờ giúp tôi hoàn tất được cuộc tìm kiếm vất vả và nhiều gian truân
này."
Tôi lòng dạ nào mà không giúp Jeff. Ôm xấp thư về
khách sạn, tôi đã chong đèn ngồi đọc kỹ lưỡng. Chẳng những đọc chậm
rãi, suy tính từng chữ từng câu, mà tôi còn phải cố tìm cho được mùi
thật thà trong mỗi lá thư. Tôi loại ngay những lá thư tin tức thì chẳng
có bao nhiêu nhưng tán hươu tán vượn thì nhiều. Phần lớn những lá thư
này được viết rất tươm tất sạch sẽ, lời văn hoa mỹ, nét chữ sắc sảo,
rõ ra là một tác phẩm của một người chuyên viết mướn. Tôi cũng loại
ra những bức thư quanh co, cố tỏ ra là biết chỗ ở của đứa trẻ mất tích
nhưng mục đích là dụ người tìm con sang Việt Nam để trực tiếp đưa đi
tìm hòng kiếm ít bổng lộc. Còn có những bức thư viết mơ hồ, cầu may,
đưa ra một số chi tiết vẩn vơ, để có thể dính máu ăn phần nếu lỡ ra
sự việc có kết quả. Cuối cùng, tôi lựa ra được một bức thư mà tôi cảm
thấy là có vẻ đáng tin nhất. Bức thư được viết bằng hai tờ giấy nhàu
nát, đen đúa. Thoạt đọc thì đã biết ngay người viết không được học nhiều.
Câu cú lộn xộn, chữ dùng mộc mạc, chấm phết lung tung, ý tưởng được
diễn tả một cách rối rắm rườm rà. Nhưng tôi thấy được sự chân thành
toát ra trong suốt hai tờ giấy mà chắc người viết phải khổ công mới
hoàn tất được. Người viết cho biết là bạn hàng xóm với con nhỏ từ khi
hai đứa còn nhỏ xíu. Khi mẹ con Nụ dọn nhà đi thì còn liên lạc, nhưng
lâu dần, qua mấy lần đổi chỗ ở liên tiếp của cả hai bên, thì chỉ còn
nghe nói về nhau qua những người bạn chung năm thì mười họa mới gặp.
Người viết cho biết là tới nay, có thể lần ra dấu vết để kiếm ra được,
nhưng muốn vậy phải có phương tiện đi kiếm. Lời lẽ bức thư tỏ rõ không
có ý lợi dụng, không xin xỏ, không hứa hẹn, nhưng vì tình bạn với con
nhỏ nên sẵn lòng hợp tác trong việc tìm kiếm.
Tôi chấm bức thư này mà cảm thấy mình không lầm lẫn
khi chỉ con đường cho Jeff noi theo. Jeff cũng đồng ý như vậy khi nghe
tôi phân tích và trình bày cặn kẽ lối suy luận của tôi.
Điện thoại nhà tôi có thêm một tiếng chuông lạ. Jeff gọi cho tôi mỗi
khi có diễn biến mới hoặc khi anh cần hỏi ý kiến tôi. Anh đã gửi một
số tiền nhỏ làm phí tổn cho người bạn của con anh đi tìm kiếm. Những
ngày chờ đợi tin tức là những ngày anh căng người hồi hộp. Mỗi ngày
qua là một ngày anh cảm thấy khoảng cách giữa bàn tay anh và bàn tay
của con gái anh được kéo gần lại hơn. Và anh như hào hứng sống lại thời
gian ở Việt Nam. Những cú điện thoại của anh có thêm chuyện mới. Anh
say sưa kể cho tôi nghe về người con gái tên Nụ, người đã mang lại cho
anh những ngày sống ý nghĩa giữa cuộc chiến khốc liệt mà anh tham dự
như người bị xô lưng đẩy tới.
Đầu óc anh vẫn vất vưởng ý nghĩ bị kỳ thị trong thời
gian ở Việt Nam. Những cuộc điện đàm hình như đã cho anh đủ thân cận
để hỏi tôi những câu hỏi khá tế nhị.
"Tôi thương yêu Nụ và nàng cũng thương yêu tôi
nhưng tôi để ý thì thấy nàng luôn luôn tránh né việc đi cùng tôi ra
giữa đám đông. Những người con gái sống với những bạn da trắng của tôi
thì không vậy. Sự kỳ thị ở bên này tôi hiểu được, đó là một dấu vết
đau buồn của lịch sử, từ những ngày tổ tiên tôi bị mang tới châu Mỹ
như những tên nô lệ. Nhưng bên nước ông, tại sao cũng có sự kỳ thị,
nhiều khi tôi thấy còn nặng nề hơn ở bên đây. Tại sao vậy, ông bạn?"
Tôi không muốn tránh né nhưng trả lời câu hỏi này
quả là một điều tế nhị, quá tế nhị. Cho cả Jeff và tôi. Tôi cố mài giũa
sao cho lời nói được tròn trịa, nhẵn nhụi hơn.
"Sự kỳ thị, như ông biết đấy, bao giờ và ở đâu
cũng là điều đáng chê trách, nhưng khốn nạn thay, nó lại luôn luôn có
mặt bất kể thời gian và không gian. Để hiểu nó, người ta phải gác lại
tình cảm để chỉ dùng lý trí mà phân giải. Ông cảm thấy bị kỳ thị bên
nước tôi thì tôi nhiều khi cũng cảm thấy bị kỳ thị trong cuộc sống ở
nơi đây. Rồi chúng ta có đi tới chân trời góc biển nào cũng vậy. Còn
những người khác mầu da, khác tiếng nói, khác văn hóa chung sống với
nhau thì anh chàng kỳ thị vẫn còn có cơ hội chường mặt ra. Nếu phải
trả lời cho câu hỏi của ông thì tôi cũng qui trách nhiệm cho lịch sử
như ông vậy. Lịch sử cận đại của nước tôi là một quãng thời gian đau
buồn của một nước nhược tiểu bị một cường quốc phương Tây chiếm đóng
và cai trị. Người Pháp đã mang đến nước tôi một đạo quân hỗn tạp trong
đó có những người da đen ở Phi Châu, nơi xuất phát của tổ tiên ông.
Và, phải xin lỗi ông trước, ông đừng buồn khi nghe tôi nói là những
người da đen này, với những vết rạch trên mặt, là những người hung hãn
trong việc cướp bóc, hãm hiếp dân Việt Nam chúng tôi. Trong khi đó thì
người da trắng là những người cai trị, quyền sinh sát trong tay, làm
dân nước tôi tuy không ưa, thậm chí còn chống đối nữa, nhưng những người
dân đen nước tôi trong thâm tâm vẫn phải nể sợ họ. Chính tình huống
này đã đặt ngôi thứ cho mầu da trắng và mầu da đen trong suy nghĩ và
tâm cảm của dân nước tôi. Xóa đi một vết đen của lịch sử kéo dài cả
trăm năm chẳng phải là điều dễ. Khi các ông sang, vết đen đó vẫn còn
tồn tại và sự kỳ thị mà ông cảm thấy là hậu quả tất yếu vậy thôi."
Tôi ngưng nói mà đầu dây bên kia vẫn lặng thinh. Tôi
giữ ống nghe mà lòng không yên. Chẳng lẽ tôi đã cho Jeff uống một liều
thuốc quá mạnh. Một chặp sau tôi mới nghe được cái giọng buồn bã của
Jeff.
"Nhờ ông nói rõ nên tôi hiểu được phần nào nỗi
thắc mắc mà tôi vẫn nặng mang trong lòng. Cám ơn ông nhiều. Dù sao,
quê hương ông và Nụ của tôi vẫn là những kỷ niệm mà tôi vẫn còn chắt
chiu trong một góc thân yêu nhất nơi tình cảm của tôi."
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi đã nói được điều khó nói
và Jeff cũng đã hiểu phần nào được điều khó chấp nhận. Tôi mừng đã không
mất Jeff, người mà tôi trọng vì tinh thần trách nhiệm của anh. Và do
sự đưa đãy tình cờ, tôi đã góp được một phần nhỏ nhoi vào sự tìm kiếm
này. Tôi mong ngóng tiếng chuông điện thoại của anh như một người trong
cuộc. Tôi hồi hộp cùng anh, vui mừng cùng anh trước mỗi diễn tiến thuận
lợi của việc tìm kiếm. Khi con số điện thoại của anh hiện lên trên máy
giữ số cùng tiếng chuông lanh lảnh reo vang, tôi vội chụp ống nghe.
Sau những câu thăm hỏi xã giao cố lướt qua cho nhanh, Jeff hớn hở.
"Tôi báo cho ông tin mừng, tôi kiếm được con tôi
rồi. Tôi đã kiểm chứng kỹ lưỡng những bức hình gửi sang, những bức mới
chụp cùng người tôi nhờ tìm kiếm, và những bức chụp rải rác trong những
năm trước, khi một mình, khi với Nụ. Đúng là con tôi rồi ông ạ. Mừng
quá nên tôi vội gọi liền để ông chia vui với tôi và cũng để cảm ơn tấm
lòng quí hóa của ông. Không có ông, chắc gì tôi đã có được niềm vui
lớn lao sớm sủa như thế này. Tôi sẽ xúc tiến mọi thủ tục và khi nào
con tôi sang, tôi sẽ mời ông qua dự bữa tiệc đoàn tụ của cha con tôi.
Tôi cũng sẽ mời một số bạn hữu đã từng sống với tôi ở Việt Nam họp mặt
chia vui với tôi. Lúc đó, dù ông có bận việc thế nào, ông cũng phải
ráng thu xếp sang chung vui với tôi nghe. Nếu ông không thu xếp được
thì tôi sẽ nhờ bà Hillary phá hư chiếc máy để kéo ông qua! Và lần này
thì bà Hillary cũng không có quyền được bận việc để từ chối không tới
dự. Sao tim tôi nó nhảy dữ thế này không biết nữa!"
Tôi vui với cái vui của Jeff.
"Ông cứ để cho tim ông nó nhảy. Ông có nghe thấy
tiếng tim tôi nhảy cùng với tim ông không?"
Jeff cười vang.
"Cám ơn trái tim của ông. Tiện đây, tôi cũng xin
báo cho ông biết là tôi sẽ thu xếp để tháng sau qua Việt Nam gặp con
tôi trước."
Tôi tinh nghịch cắt ngang lời Jeff.
"Và gặp Nụ nữa chứ!"
Tôi đợi một tiếng cười đồng tình ở bên kia đầu dây
nhưng tai tôi chỉ nghe vọng lại một giọng thẫn thờ.
"Nụ mất rồi ông ạ!"