Nhẩy dù, tôi quen từ khuya. Những ngày nhỏ ở Hà Nội, lũ học sinh
chúng tôi thường lang thang ra bờ đê chơi đá bóng. Trên bãi cát bên
bờ sông Hồng có một khu tập luyện của lính nhẩy dù. Một căn chòi cất
bằng gỗ cao lênh khênh có chiếc thang gỗ sần sùi để leo lên. Bên kia
căn chòi giống như một căn nhà nho nhỏ trên miền thượng du được nâng
cao là một chiếc cửa tò vò, bên ngoài cửa là một sợi giây cáp bằng
thép được nối thoai thoải sang một chiếc cột thấp hơn ở phía xa. Trên
sợi giây có những chiếc ròng rọc. Gần phía cuối sợi giây, giáp với
chân cột là một chiếc hố nông được đổ đầy cát. Chúng tôi say mê coi
những tân binh nhẩy dù leo lên thang, chui vào căn chòi rồi thả người
nắm vào chiếc ròng rọc tụt xuống theo sợi giây cáp. Người nọ tiếp
nối người kia trông như một dòng người bị treo trên giây. Khi tụt
tới chỗ hố cát là phải buông người nhảy xuống cho đúng thế. Anh nào
làm sai là bị ông Trung Sĩ thưởng cho một cú quất đích đáng bằng chiếc
roi mây lúc nào cũng nhịp nhịp trên tay ông. Nhiều anh loạc choạc
té lăn quay ra chẳng theo bài bản trông lúng túng tức cười. Nhưng
vui hơn là lúc coi các tân binh nhẩy từ trên phi cơ xuống. Chiếc máy
bay, đúng hơn chỉ là thân chiếc máy bay được kê trên bệ cao, sẵn sàng
nuốt vào cả chục người. Dưới máy bay cũng là một hố cát. Mọi người
tiến ra cửa máy bay nhẩy xuống. Có những anh nhát gan cứ đứng ỳ ra
ở cửa không dám nhẩy. Chiếc roi trên tay ông Trung Sĩ lại có việc
làm. Tuổi trẻ ngây ngô và ác độc của chúng tôi chẳng bao giờ bỏ qua
mà không cười lăn lộn với nhau khi nhìn thấy những anh chàng nhát
gan nhịp nhịp nơi khung cửa máy bay mà chân không dám nhẩy ra khỏi
cửa. Những tiếng cười...bất nhân của chúng tôi vang vang từ ngày nọ
tới ngày kia mà không chán.
Nhẩy dù, tôi quen từ khuya. Bà cô tôi đi may trong trại nhẩy dù ở
Hà Nội. Chiều chiều, anh em chúng tôi thường đón bà đi làm về trong
tư thế tranh dành rất dữ dội. Bà thường mang về cho chúng tôi những
mẩu vải dù đủ màu. Những miếng vải mỏng, trơn mềm, màu sắc rất nổi.
Chúng tôi dùng những sợi giây dù nhỏ, kéo từ trong ruọt những sợi
giây lớn, cột vào bốn góc miếng vải vuông, đầu giây kia túm vào một
cục chì hay lõi cuộn chỉ, làm thành những cánh dù tí hon. Chúng tôi
thi nhau cuộn chiếc dù nhỏ, tung lên trời cho dù mở ra, bay là là
xuống. Có những lúc cột chặt quá, dù không mở ra được, tức giận, mặt
đỏ tía tai trước những câu chế nhạo không lấy gì làm êm tai.
Nhẩy dù, tôi quen từ khuya. Đầu năm 1970, tôi bước chân vào Trung
Tâm Huấn Luyện Quang Trung để thụ huấn 9 tuần quân sự. Chiếc GMC vừa
đổ những chàng trai còn chưa hết ngơ ngẩn khi giã biệt cuộc đời dân
chính xuống cổng trại, chúng tôi đụng ngay vào một đoàn quân đang
chạy di hành với ba lô trên vai. Người nào người nấy mồ hôi nhễ nhại.
Không hiểu họ đã chạy bao nhiêu vòng sân trại rồi. Những bước chân
nặng chình chịch như không còn lết nổi vẫn cố nuốt từng phân chiều
dài của đoạn đường còn lại. Những khuôn mặt đỏ ké đẫm ướt mồ hôi có
những chiếc miệng uể oải hô theo từng bước chân nặng nhọc. Nhẩy dù
cố gắng! Nhẩy dù cố gắng! Nhẩy dù cố gắng!
Nhẩy dù, tôi thân thuộc khi bạn tôi, Bùi Quyền, gia nhập binh chủng
này sau khi tốt nghiệp thủ khoa Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Hồi
đó, chúng tôi còn đang học lớp Đệ Nhị C trường Chu Văn An thì Bùi
Quyền và một vài anh bạn khác rời lớp học tình nguyện gia nhập quân
đội. Từ đó, chúng tôi ít khi gặp nhau. Khi Bùi Quyền chinh chiến khắp
các vùng đất nước chúng tôi chẳng có thời giờ nhìn thấy mặt nhau.
Nhưng hình Bùi Quyền trên báo thì tôi có thấy nhiều lần. Anh đã trở
thành một cấp chỉ huy tài giỏi của một binh chủng khét tiếng. Một
“thiên thần mũ đỏ” được nhiều người biết đến.
Thiên thần mũ đỏ? Những con người phong sương, đi đứng dềnh dàng
này coi bộ khó mang hình ảnh thiên thần quá! Thiên thần trong trí
tưởng của mọi người thường là những hình ảnh dịu hiền, thanh tịnh,
trắng trẻo, có đôi cánh nhẹ nhàng bay lơ lửng trên trời. Mũ đỏ cũng
có cánh. Chiếc cánh gắn trên mũ, trên tay áo. Những chiếc cánh không
ở trên lưng có lẽ đã làm lạc đường bay của các thiên thần khét mùi
thuốc súng này. Thiên thần trinh trắng bay lên, thiên thần mũ đỏ bay
xuống! Làm thiên thần nhởn nhơ trên bầu trời, tay chắp trước ngực,
chân chẳng bao giờ đụng đất coi bộ khó vui. Thiên thần mũ đỏ cứ tà
tà bay xuống, mông rồi chân đụng đất, trần tục vậy mà xem ra fun hơn.
Chiếc nón sắt ngập tràn rượu đế, khói thuốc nhả mù mịt, đồng đội vỗ
vai nhau nghiêng ngả, tiếng chửi thề, tiếng văng tục đệm vào những
câu nói, phê biết mấy. Tiền lính tính liền, nhưng đời lính thì tính
sao được? Nay còn nghiêng ngả bên nhau, mai đụng trận biết có còn
trở về không? Tình lính là một thứ tình bất an nên luôn luôn đậm đà.
Một đồng đội nằm xuống, cả một đoàn quân ngỡ ngàng. Thương anh em
nhưng cũng thương mình. Mũi tên hòn đạn không có mắt nhưng những người
lính lúc nào cũng cho nhau những ánh mắt bạn bè. Nhất là lính của
những binh chủng cứ đâu có tiếng súng nổ là nhào tới.
Một ngày thứ bảy, Nguyên Vũ, mũ đỏ vắt ngang trên cầu vai áo trận,
nhào tới tòa soạn Thời Nay, mặt mũi lầm lì đỏ kệch, rủ Khánh Giang
và tôi kiếm chỗ ngồi nói chuyện chơi. Chúng tôi chạy xe tới quán Cái
Chùa. Ba chai 33 vừa được khui ra trên bàn, chưa ai nhắp được một
hớp nào, Nguyên Vũ đưa cặp mắt đờ đẫn đảo quanh. Tròng mắt anh nháng
lửa. Tay anh đặt trên khẩu súng lục dắt trong bụng. Tôi nhìn theo.
Một thanh niên ăn diện đúng mốt, sơ mi trắng thẳng nếp, cà vạt tiệp
màu với chiếc quần, bộ râu quai nón cắt tỉa kỹ lưỡng, cặp kính đen
đắt tiền trên mặt, đang trầm ngâm trước ly cà phê. Nguyên Vũ dợm đứng
dậy. Khánh Giang ấn anh xuống. Chuyện gì vậy? Trông cái thằng kia
chướng mắt quá, moi phải cho nó một viên! Thôi đi cha nội, uống đi!
Có lẽ Nguyên Vũ đã tắm rượu từ trước ở đâu rồi, giọng nói anh đẫm
men. Khánh Giang nheo mắt với tôi. Cho moi mượn khẩu súng chút coi!
Nguyên Vũ cười cười. Nhưng anh cũng đưa tôi khẩu súng. Tôi đút con
chó lửa vào túi. Nhìn tôi cười cười như nhìn một đứa bé, Nguyên Vũ
đứng dậy, tiến đến anh thanh niên đúng mốt ăn chơi Saigon. Mặt anh
chàng tái mét. Nhanh như một con sóc, Nguyên Vũ móc cặp kính Rayban
ra khỏi khuôn mặt phì nộn, bóp nát trong tay. Máu từ trong lòng bàn
tay Nguyên Vũ rỉ ra nhỏ xuống đất. Anh thanh niên hoảng hốt lủi nhanh
ra cửa. Trở lại bàn, Nguyên Vũ thản nhiên móc khăn ra thấm máu. Mẹ
nó chứ, ai đánh giặc cho nó ngồi làm cha thiên hạ ở đây! Đại đội moi
vừa đụng lớn, đi mất gần hai chục con cái! Mắt anh như có nước mắt.
Ngày đó, tôi hiểu tâm trạng của anh. Anh là một người lính mũ đỏ
cầm bút. Cái đau trong mất mát của anh là cái đau của nghĩ ngợi lao
lung. Năm 1993, gặp lại Nguyên Vũ ở Houston, anh tặng tôi cuốn Xuân
Buồn Thảm anh vừa tái bản, đọc xong, mặc dù chuyện xảy ra nơi quán
Cái Chùa đã trên hai chục năm, tôi lại càng thông cảm với anh hơn.
Chuyện chiến trường chính là chuyện địa ngục! “Trận địa pháo địch
tái hoạt động mãnh liệt đêm 23 rạng 24 tháng 2. Trọn ngày hôm sau,
hàng ngàn pháo địch nã vào căn cứ 30 và 31. Tám giờ sáng ngày 25,
địch khởi sự tấn công. Khoảng hai giờ trưa, Đại Úy Đương, Pháo đội
trưởng B-3 Dù, báo cáo tăng địch xuất hiện dưới chân đồi và đích thân
bắn trực xạ nát hai chiếc. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 3 Dù anh dũng giữ
từng thước đất, từng giao thông hào. Nhưng thịt xương không đủ ngăn
chặn xích tăng. Sáu giờ chiều, khi cơn mưa lớn đột ngột phủ dầy cảnh
vật Khe Sanh, căn cứ 31 mất liên lạc. Mắt những sĩ quan tham mưu Dù
đỏ hoe. Ai nấy như thu nhỏ lại, dính cứng trên mặt ghế. Căn hầm chỉ
huy chợt rộng thênh thang, im vắng như huyệt địa. Không có một phép
lạ nào cho những người lính Dù tội nghiệp đó. Phép lạ họa chăng chỉ
đến với đám người may mắn thoát khỏi căn cứ, để một tuần lễ sau thất
thểu lả mệt tìm về căn cứ A Lưới, ứa nước mắt mừng tủi trước khi gục
lả trong vòng tay chào đón của các chiến hữu.”
Sau 1975, địa ngục một lần nữa đến với những mũ đỏ trong những cái
gọi là Trại Học Tập Cải Tạo mà thực chất là những trại khổ sai đẫm
máu và tủi nhục. Sau 14 năm ngục tù trong đó có cả những năm bị kiên
giam, Mũ Đỏ Phan Nhật Nam đã luận về những ngày tù không tội trong
cuộc nói chuyện với nhà văn Hoàng Khởi Phong trong cuốn Cây Tùng Trước
Bão: “Phần tao, bề gì cũng là một sĩ quan Nhẩy Dù, nếu họ muốn tao
chết như một Con Vật thì cách hay nhất là tao sẽ chết như một Con
Người. Để có thể sống như một con người, như một cây sậy biết suy
nghĩ đó, con người nhà văn của tao trồi lên. Không có giấy và bút,
mà văn chương đặc biêt là truyện dài, trong hoàn cảnh đó nhiều lắm
tao chỉ có thể dàn dựng ra cốt truyện mà thôi. Đâu có thể nhớ nhẩm
được. Mày nhắc đến nhà văn lớn của nước Nga là Alexandre Solzhenitsyn,
mày nhắc đến cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch và cách hình
thành tác phẩm đó. Đây là một cuốn sách được viết trong thời gian
nhà văn lớn của nước Nga, của nhân loại đi ở tù. Tao cũng biết quyển
sách đó không phải viết nhẩm, mà là viết truyền khẩu. Có nghĩa là
ông ta không bị kiên giam như tao, ông ta được sống chung với các
bạn tù. Nếu mày bị biệt giam mày sẽ hiểu được giam chung với đồng
loại là một hạnh phúc. Thật đúng là một hạnh phúc khi mày còn thấy
những người bạn ốm đói, rách rưới, thều thào như những bóng ma ngay
cả trong thanh thiên bạch nhật.”
Nhẩy Dù cố gắng! Chỉ có cố gắng những mũ đỏ mới giữ được mầu mũ.
Và ngay cả khi mũ đỏ không còn trên đầu, Nhẩy Dù vẫn cứ cố gắng! Bác
Sĩ Mũ Đỏ Trương Văn Như là người Mỹ gốc Việt duy nhất trong số 12
vị Bác sĩ vừa được ban Cố Vấn Tổ Chức Y Sĩ thuộc Hội Đồng Các Dân
Biểu Đảng Cộng Hòa Mỹ ra quyết định vào ngày 04 tháng 12 năm 2004
tuyên dương là Bác Sĩ Xuất Sắc Năm 2004 vì các cống hiến cho sự nghiệp
y khoa phục vụ cộng đồng. Tên của Bác Sĩ Như đã được ghi trên đầu
bảng gồm toàn các Bác Sĩ Mỹ chính gốc. Cuộc đời của Mũ Đỏ Trương Văn
Như là một cuộc đời đầy những cố gắng. Thân sinh của Bác Sĩ Như là
một nhạc sĩ đánh đàn cổ nhạc và mơ ước của ông chỉ là muốn con trai
mình trở thành kép hát. Nhưng năm 10 tuổi, chú bé Như đã bỏ vùng đầm
lầy Vàm Cống để lưu lạc tìm cơ hội học tập. Năm 1962, sau khi học
hết cấp Tiểu Học, cậu bé Như một mình phiêu lưu lên Saigon giúp việc
nhà và lo mua đồ cúng quảy cho một ông thày bói để kiếm cơm đi học
từ lớp Đệ Lục đến hết Tú Tài 1 tại trường Hồ Ngọc Cẩn. Sau đó, Trương
Văn Như qua giúp việc nhà cho một người giầu có để có cơ hội tiếp
tục học Tú Tài 2 tại trường Chu Văn An. Năm 1967, anh thi vào trường
Đại Học Y Khoa và gia nhập ngành Quân Y để có thể tiếp tục việc học.
Ra trường năm 1974, anh chọn binh chủng Nhẩy Dù và phục vụ cho tới
khi mất nước. Vào tù Cộng Sản 2 năm, khi được thả ông đã vượt biên.
Ông vào Mỹ định cư tại Orange County năm 1984. Những năm định cư đầu
tiên, Bác Sĩ Như phải trần thân làm nhiều nghề khác nhau kể cả làm
nail! Nhưng với ý chí và với sự cố gắng sẵn có của một mũ đỏ, ông
học lại và chính thức được cấp bằng Bác Sĩ Y Khoa của Hoa Kỳ vào năm
1995. Ông hiện là Trưởng Khối Y Khoa tại Công Ty Mac Beam Inc. chuyên
phát minh và sản xuất các loại máy Y khoa trị liệu dùng tia laser
có công xuất thấp. Ông có thể nói rành các thứ tiếng Việt, Triều Châu,
Phúc Kiến, Quan Thoại, Nhật, Anh, Pháp và Tây Ban Nha.
Nhẩy Dù là cố gắng. Có chiếc mũ đỏ trên đầu hay không, họ vẫn cố
gắng. Suốt cuộc đời. Cố gắng cho mình, cho đồng đội, cho đồng bào,
cho đất nước!
02/2005
|