[Chốn Cũ, tập truyện của Song Thao, Nhân Ảnh xuất bản 2006, 225 trang,
giá 14 Mỹ kim]
Chốn Cũ là tên của một truyện trong tập truyện này, nhưng đó cũng
là cái không khí chung của cuốn sách. Chốn cũ... một tiếng gợi nhớ
về những không gian mình đã từng ở trong ấy, những thời gian mình đã
trải qua, những tâm tình mình đã từng rung động, những khuôn mặt mình
đã gần gũi... Mười truyện, đề tài khác nhau, nhưng khuynh hướng “đi
tìm những gì đã mất” vẫn bàng bạc khắp nơi, tuy bàng bạc nhưng vẫn
rõ rệt đến nỗi người đọc có thể xem nhan đề Chốn Cũ là chủ đề chính
của cả cuốn tập truyện ngắn này.
Một người sinh ra trên đất Bắc, điển
hình là Hà Nội chẳng hạn, vào khoảng cuối thập niên 1930 đầu thập niên
1940 thì cuộc đời quả có nhiều cơ hội dời đổi hơn người cùng lứa ở
miền Nam. Cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ chủ yếu là tại Hà Nội,
tạo nên phong trào tản cư gần như toàn diện. Hầu như nhà nào cũng bồng
bế gánh gồng đi về vùng quê, trong khi tại miền Nam, điển hình là Sài
Gòn, lại chẳng có cảnh này. Cuộc chiến kéo dài được mấy năm thì lại
có phong trào hồi cư, nhiều gia đình lại quay về thành phố là nơi Pháp
chiếm đóng và chính phủ quốc gia non trẻ mới được thành lập. Cuộc sống
thành thị bắt đầu ổn định yên vui thì đùng một cái, đất nước chia đôi,
tạo nên cuộc di cư vĩ đại đi về miền Nam. Ở miền Nam được 20 năm, lại
bắt đầu ra đi nữa, sống nhờ tại nhiều nước trên thế giới. Chưa kể chiến
tranh và nhiều sự khắc nghiệt khác, chỉ nguyên một chuyện xáo trộn
và di chuyển như thế cũng quả là quá nhiều cho thời gian của một đời
người. Và dĩ nhiên các biến cố đã hằn những dấu vết khó phai trong
tâm khảm những người trong cuộc.
Song Thao là một người đã trải qua
đầy đủ các biến chuyển vừa kể. Người ta không thể không chờ đợi ở một
người viết văn như ông, một lúc nào đó bắt đầu viết về... chốn cũ,
cho người đọc chia sẻ với từng mảng quá khứ ông đã trải qua, đã trở
thành quá xa trong không gian, trong thời gian và trong tâm tưởng,
xa đến độ tưởng chừng không còn bao giờ gặp lại, nhưng cũng chính vì
thế mà có một khí vị đặc biệt chỉ một số người sống qua hậu bán thế
kỷ 20 của Việt Nam mới có kinh nghiệm thôi.
Một điều chắc chắn là tác giả sẽ không thể viết về chốn cũ nếu không
có cơ hội về thăm chốn cũ. Chiến tranh kết thúc năm 1975 đối với miền
Nam giống như một hòn đá lớn ném xuống một ao bèo, làm nước tung tóe,
bao cánh bèo giạt ra tứ phía. Nhưng rồi sóng lặn dần, từng tí một các
cánh bèo nhích về vị trí cũ. Song Thao là một trong những cánh bèo
ấy, ông đã về thăm lại Việt Nam, không những chỉ miền Nam mà cả Hà
Nội, cái nôi thời thơ ấu và niên thiếu của ông. Đó chính là “chốn cũ”
quan trọng nhất của Song Thao, nơi tâm hồn và nhân cách của ông đã
thành hình, nơi ông đã sống những ngày tháng huyền thoại mà sau khi
rời bỏ năm 1954, và nhất là sau cơn biến động 1975 đã xô giạt ông ra
nước ngoài, có lẽ ông không hề tưởng sẽ có ngày tái ngộ. Thế mà Song
Thao đã về. Đã đi trên những con đường cũ. Đã tìm được và vào thăm
ngôi nhà mình đã cùng gia đình cư ngụ thời xưa. Đã “nắm áo người xưa
ngỡ trong giấc mơ.” Đó là những thời khắc phải nói là lớn lao vào bậc
nhất trong đời một người. Nhưng Song Thao không để xúc cảm tràn ngập,
ông không khóc than trên giờ khắc tái ngộ, không triết lý về sự tàn
phá của thời gian. Ông nói về chốn cũ vừa như một người con đầy xúc
động tìm về ngôi nhà cũ của bố mẹ, nhưng cũng với sự tỉnh táo của một
du khách của thời toàn cầu hóa. Ông đã tìm thấy Hà Nội huyền thoại
của tuổi thơ với cơn dâng trào của biết bao đợt sóng kỷ niệm, nhưng
ông cũng không quên Hà Nội hiện tại với bao phế hưng thay đổi không
còn giống như ngày xưa. Ông đã gặp lại Hà Nội, tỉnh táo hơn người ta
tưởng, mặc dù đã có lúc
“Tôi ngậm ngùi trước nhà cũ. Ngót nửa thế kỷ lưu lạc, tôi mới trở
về. Tôi có phải khóc không nhỉ? Mắt tôi khô đi vì xúc động. Tôi đứng
lặng người. Hình ảnh những ngày cũ quay mòng trong chiếc đầu đã hai
thứ tóc, những sợi tóc bạc màu nhung nhớ nằm lấn lướt những sợi tóc
ngày xanh.”
Nhưng Song Thao không bao giờ bị chìm đắm trong kỷ niệm. Ông
luôn luôn cho thấy là mình đang đối diện với Hà Nội bây giờ, với những
nhận xét, những ký ức chợt đến khi đi qua nơi này, nơi khác. Tác giả
đã nhìn lại Tháp Rùa, mà bây giờ ông thấy là “quá nhỏ” và nhận ra “cái
gì trong kỷ niệm cũng vạm vỡ hơn trong thực tế. Mình thường phóng đại,
tô hồng chuốc lục cho những kỷ niệm.” Ông nhớ cái bánh mì ba tê “ngon
thấu trời” do một chú bé bán ngày xưa, nhớ món đậu phọng rang húng
lìu của ông già tàu có “cái miệng lúc nào cũng
nhe ra như cười mà không phải cười,” nhớ “chiếc xe điện xưa leng keng kéo chuông giữa lộ nay
đã biến đâu mất chẳng còn dấu tích”... Là người từng trải qua bao biến
đổi lớn trong đời, ông đến Hà Nội không mang ảo tưởng phải bắt gặp
lại ngày xưa “của mình” để rồi kêu la thất vọng, ông rất biết điều
chấp nhận cái đang có để thỉnh thoảng lại lặn sâu vào các kỷ niệm chỉ
của riêng ông. Nhờ thế mà đọc truyện của ông ta luôn luôn gặp cái linh
động của Hà Nội ngày nay, điểm xuyết đó đây là các hồi ức của một thời
niên thiếu làm ta xúc động một cách nhẹ nhàng và đằm thắm.
Truyện “Tìm
Về” nội dung không khác truyện “Chốn Cũ” (nếu nghịch ngợm nối hai cái
tên đó lại thành Tìm Về Chốn Cũ cho hai truyện nhập thành một thì có
lẽ cũng... được), nhưng có một chỗ làm cho tôi rất cảm động, đó là
cái gần như là mối tình của người con gái tên Chuyên 13 tuổi thời 1954
với nhân vật trở về. Câu hát trong bài Ngày Trở Về của Phạm Duy tôi
trích dẫn trên kia “nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ” là nhằm vào
“chuyện tình” này. Xin đọc một trích đoạn:
“Gian bên cạnh là cơ ngơi
của một cặp vợ chồng trẻ, lúc nào cũng nồng nàn, phơi phới. Có lần
đứng với tôi bên khung cửa này, Chuyên đã thầm thì. Khi nào chúng mình
lớn, anh với em sẽ thành vợ chồng như vậy nghe! Tôi bỗng nhớ tới Chuyên.
Cô bé mười ba tuổi trắng trẻo, mũm mĩm, mắt tròn to, tóc rậm rạp đen
nháy, lúc nào cũng theo tôi trong các cuộc chơi.”
Thế mà nhân vật trong
truyện, mà tôi nghĩ rất có thể là chính tác giả, lại bỏ cô Chuyên ở
lại để đi di cư vào Nam. Bây giờ gặp lại Chuyên đã là một bà góa, đã
về hưu. Nhưng Chuyên đã gặp lại người xưa với đúng cái tình của một
cô gái 13 tuổi.
“Chuyên luồn ra phía sau, ôm cứng lấy tôi, thì thào
bên tai.
Vậy thì em phải giữ anh cho chắc. Ngày xưa em cũng đã giữ anh như vậy
nhưng anh vẫn gỡ vòng tay em chạy mất. Anh còn nhớ vòng tay xưa của
em không?.”
Kẻ “tìm về” này, kể ra cũng thật là may mắn! Mấy ai, sau
bao nhiêu biến đổi sâu xa của đất nước có tác động ghê gớm vào số phận
con người, khi tìm về chốn cũ mà được gặp lại một tấm tình của tuổi
mười ba còn sót lại như vậy. Dưới ngòi bút của Song Thao – có lẽ ông
cũng viết với tâm tình của cậu bé 15 tuổi năm 1954 – câu chuyện diễn
ra cảm động và rất đẹp. Trong tất cả những tâm tình viết về các chuyến
đi về mà tôi đã được đọc, tôi rất thích truyện này, nó cho thấy thời
gian, chiến tranh, chế độ chính trị v.v... có thể nhào nặn, biến đổi,
làm méo mó xấu xí đi nhiều thứ, nhưng ẩn dưới bao nhiêu lam lũ và thô
thiển của cuộc đời vẫn còn những mảnh kim cương ngời sáng của tình
người, của tình yêu khi người ta vừa chớm lớn.
Nếu chỉ dừng lại ở vài truyện có chủ đề tìm về cái cũ thì công việc
giới thiệu Chốn Cũ chưa hoàn tất. Còn nhiều điều để nói và đáng nói
về cuốn sách này. Nhưng khi đã chọn chủ đề là chuyện trở về Hà Nội
thì chỉ nên nói một chuyện ấy thôi. Vì với một người có tiểu sử như
tác giả Song Thao, không một chốn cũ nào có thể cũ hơn thành phố Hà
Nội nữa.
Phạm Xuân Đài |